Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

KIẾP NGƯỜI (Truyện ngắn của Mai Tiến Nghị)(KỲ 3)

Tiếp theo và hết:

Bây giờ thì “nó” đang ở trong nhà bà, đang ngủ trên cái giường mà “nó” đã cùng con trai bà...
          Lúc tối qua khi bà đang dọn dẹp chuẩn bị đi ngủ, thì ngoài ngõ có tiếng gọi: Bà ơi... Bà Sênh vội lập cập ra cửa giương cặp mắt kèm nhèm nhìn thấy một thiếu phụ dắt thằng bé khoảng lên bốn lên năm bước vào.
          - Bà có khỏe không ạ? Bà có nhận ra con không ạ?
          Bà lão dè dặt:
          - Tôi khỏe. Chị đây ...chị đây là?
          Người phụ nữ ngồi xuống ghế, quay mặt về phía ánh sáng:
          - Dạ con là con bé ngày xưa đã... đã ở đây ba ngày... hồi anh Sinh... Bà không nhớ ra ạ!
          - Ôi giời. Sao bây giờ khác thế. Mà sau đấy đi đâu? Thế đây là con chị à? Được mấy tuổi rồi?
          Bây giờ thì bà đã nhận ra người của ngày xưa. Mặt thị không khác mấy nhưng người thì hơi đẫy ra. Không biết đến đây có việc gì. Cha tổ bố nhà “nó”... tưởng đã quên rồi bây giờ “nó “lại đến. Duyên nợ gì nữa. Ngày ấy mọi việc đã sòng phẳng rồi mà. Cũng tại mình, thấy nó chăm sóc thằng Sinh chu đáo, thấy thằng Sinh vui vẻ mà mình thương, giữ “nó” ở lại ba ngày. Ba ngày có “nó” trong nhà ấm áp hẳn lên. Đôi lúc mình cảm giác “nó”như đứa con dâu thật sự. Mình giả “nó” nửa chỉ vàng chứ có ít đâu. Nửa chỉ vàng cho ba ngày... Nửa chỉ vàng tích cóp bòn nhặt mấy năm mới có... Nhưng cũng chẳng tiếc. Con bà chả cần ăn, con bà chỉ cần vui... vả lại một ngày nên ngãi... thì nửa chỉ vàng có là gì. Bà nhớ rõ lúc “nó” run run tay cầm nửa chỉ vàng, rồi “nó” lồng vào ngón nhẫn tay trái trong khi mặt cúi xuống ngượng nghịu như muốn nói điều gì. Lúc ấy bà sợ nó kỳ kèo đòi thêm, nên cố đẩy “nó” xéo nhanh đi cho rảnh.
          - Ngày ấy con còn làm thêm bên bãi Quất hơn tháng nữa...đến khi biết là có bầu thì buộc phải về, mấy lị mẹ con cũng già yếu quá. Con về nhà được một thời gian rồi sinh thằng bé này.
          - Thế bố nó là ai? Bà lão hỏi mà nghe trong bụng hồi hộp.
          Người phụ nữ cúi mặt, ngập ngừng:
          - Thân phận con... làm sao biết được.
          Bà già lại lộn tiết: Cha tổ bố nhà “nó”.... có cái loại đàn bà đẻ con ra không biết bố nó là ai. Thật chả ra cái giống người!
          Bà nhìn sang thằng bé. Nó đang giấu mặt vào lòng mẹ. Tự dưng bà thấy có nét gì quen quen. Nhưng trong đầu bà giờ chỉ đậm nét khuôn mặt thân thương dù dị dạng đầu to mắt trố, cặp môi dày xuệch xoạc và cái miệng đầy dãi rớt...
          - Hôm nghe tin anh Sinh mất, con có sang... Nhưng không dám vào- Người phụ nữ nói tiếp... Con chỉ biết đứng ngoài. Thân phận con nhơ nhuốc... vào chỉ làm bẩn mắt mọi người... Nhưng con thấy cách bà đối xử với con như là đối với con người, cách mà anh Sinh đối với con... con không thể quên. Một ngày nên ngãi bà nhỉ.
           Phải rồi... con trai bà mất sau đấy non một tháng. Bà chả nhớ gì vì lúc ấy bà đang tuyệt vọng. Đang lệt bệt say... nào để ý đến ai. Vả lại con bà đã chết rồi..
          - Cùng cực quá mà con phải làm nghề nhơ nhuốc. Được gặp bà, thấy hoàn cảnh của bà, được bà thương yêu thì con tỉnh ra. Khổ như bà mà vẫn sống, vẫn cố lo cho con mình. Con còn trẻ, còn khỏe chả nhẽ lại chịu đầu hàng số phận. Vậy là sau đấy con về quê ở trên Tuyên làm ruộng làm nương nuôi mẹ nuôi con. Rồi cũng đủ sống. Vất vả nhưng thanh thản bà ạ. Thằng bé này chưa biết biển. Lúc nào nó cũng hỏi biển là gì hả mẹ. Con cho cháu xuống đây cho nó biết. Định đưa cháu sang bãi nhưng mà con sợ bà ạ. Sợ cái ngày xưa, sợ người quen chèo kéo... rồi con nhớ ra bên này còn có bà. Nên con xuống xe ở đây xin bà cho mẹ con con nghỉ nhờ một đêm rồi sáng mai con cho cháu sang bãi cho nó biết biển. Chiều mai con lại về Tuyên.
          Ôi vậy ra bà đã mừng hụt tưởng là... Cha tổ bố nhà “nó”, biển thì có cái gì mà phải vất vả đầy đọa thằng bé đường xa dặm thẳng. Mà cái thằng bé đến là dễ ngủ... nó đã leo vào lòng mẹ ngủ khì khì. Chắc là cu cậu đi đường mệt. Nhìn mẹ con nó bà lại nhớ về ngày xưa...lúc thằng Sinh còn bé.
          Trong buồng có tiếng gọi “mẹ ơi”. Tiếng gọi trong vắt. Như tiếng thằng Sinh ngày còn bé. Bà lão giật mình định chạy vào buồng... Phải rồi, ngày xưa mỗi khi nó ngủ dậy bao giờ cũng cất tiếng trong vắt gọi “mẹ ơi”. Những lúc như vậy dù bận việc gì bà cũng phải chạy vào ôm lấy con trai nựng nịu: “Ôi thằng giống của mẹ”... Còn bây giờ là tiếng gọi của thằng bé con nhà “nó”. Nhưng tiếng gọi ấy làm bà lão tỉnh hẳn. Tỉnh rồi thì ngẩn ngơ nhìn chai rượu trên tay. Thì làm thêm hớp nữa... hơi men xộc lên mũi làm bà lão suýt chết sặc. Cha tổ bố nhà nó... làm sao thế này. Ngồi định thần một tý rồi bà bước ra sân vươn vai nhìn giời đất. Mọi sự vẫn bình yên. Hôm nay chắc nắng to. Hơi lạnh buổi sáng làm bà rùng mình. Thôi phải vào nhà kẻo nhỡ cảm thì khốn. Ai lo cho.
          Trong nhà hai mẹ con đã chuẩn bị xong. Người phụ nữ đến trước bà: “Con xin cảm ơn bà. Con xin phép bà mẹ con con đi...”
          - Ở lại nấu cơm mà ăn rồi hẵng đi. Cho chắc dạ, cơm hàng cơm quán có đâu ra đâu. Tao dạo này sáng ra chả cơm nước gì. Cứ vài hớp rượu là xong.
          - Thôi con xin phép bà. Bà cố giữ gìn sức khỏe. Mẹ con con đi kẻo nắng...
          Ngần ngừ một tý rồi người phụ nữ cúi mặt, tay phải vuốt vuốt ngón tay trái lấy ra cái nhẫn:
          - Cái này ngày xưa bà cho con. Con đã coi như là kỷ vật quý. Giờ con xin gửi lại để bà dưỡng già.
          Bà già ngạc nhiên: cái nhẫn nửa chỉ ngày xưa. “Nó” vẫn còn giữ. Giời ạ. Thì ra “nó” cũng không đến nỗi nào. Tự dưng bà thấy người đàn bà này đã gắn bó với mình trong suốt quãng thời gian qua dẫu rằng chẳng hề gần nhau. Giá mà mẹ con nó...
          Bà nhìn thằng bé... Bây giờ trời sáng rõ bà mới nhìn kỹ. Bà gặp những nét thân quen của ngày xưa xa lắc... Thằng Sinh... thằng Sinh... ngày còn bé.
          Người phụ nữ cầm lấy tay phải của bà lão, gỡ bàn tay của bà xòe ra đặt cái nhẫn vào lòng bàn tay ấy. Bà lão đờ người đứng như trời trồng.
          - Con chào bà nào... rồi mẹ con mình đi- Người mẹ giục đứa con.
          Thằng bé khoanh tay cúi đầu:
          - Cháu chào bà ạ!
          Lại cái giọng trong vắt của thằng Sinh ngày xưa. Con đã về đấy phải không Sinh. Con đã về với vẹn nguyên hình hài tinh khôi mà mẹ cha đã cho. Có phải Sinh không con?
          Bà rùng mình. Nhìn ra ngõ. Hai mẹ con nhà “nó” đã khuất bóng.
          Linh cảm mách bảo với bà đúng là con thằng Sinh thật rồi. Đúng là cháu bà rồi. Giời ơi! Phúc đức quá. Cháu tôi. Cháu tôi! Như người mộng du, không kịp nghĩ thêm bà hấp tấp chân đất lao ra ngõ.
          Vấp phải hòn đá, bà ngã sóng xoài... Đau quá.... Bà thất thanh “Cháu ơi... Sinh ơi”... Không có tiếng trả lời. Ôi giời.... cha tổ bố nhà nó... đến cái tên của hai mẹ con nó bà cũng chưa biết thì lấy gì mà gọi bây giờ.
          Chợt bà khựng lại. Cái nhẫn đâu rồi? Thôi kệ! Mất thì thôi. Vàng cũng chẳng để làm gì... Phải gọi thằng cháu của bà quay giở lại. Lạy giời lạy Phật cho thằng bé là cháu ruột của con. Rõ ràng thằng bé là cháu ruột của mình. Ông ơi! Sinh ơi! Nhà mình có người nối dõi rồi. Giời còn thương đến. 
 Bà thấy ông Sênh đang dệch miệng cười... thằng Sinh cũng đang dệch miệng cười... chân tay khuều khào nhũn nhão... Cười mà như mếu.
          Bà lão rùng mình: Cháu ư... Thằng bé đang khỏe mạnh đẹp đẽ như thế... nếu là cháu của bà thì... thì đến mười năm tuổi... thì nó sẽ lại bị... Rồi nó lại bị đọa đày như bố nó. Rồi mẹ nó lại khốn khổ như bà. Giời cao đất dày ơi sao ác thế! Ý nghĩ ấy làm bà lão nghẹn thở. Có cái gì bóp nghẹt quả tim, tựa như có hòn đá nặng đè lên lồng ngực già nua. Máu ứ trên mặt...
          Cha tổ bố nhà nó! Sao khổ thế! Bà lão òa khóc nức nở. Rồi bà định thần lại: làm sao thằng Sinh lại có con được cơ chứ. Ý nghĩ ấy làm bà nguôi ngoai đôi chút. Nhưng cái dáng người, khuôn mặt, ánh mắt và nhất là giọng nói của thằng bé vẫn ám ảnh bà. Lạy giời, lạy Phật, lạy Bồ tát cứu khổ cứu nạn. Sinh ra kiếp người mà không cho kiếp người ấy được hạnh phúc là trọng tội. Con có tội! Chỉ vì thương con, ngã lòng một chút... mà con đã làm khổ hai kiếp người. Cầu mong thằng bé không là cháu của con!
          Nhưng nếu nó không là cháu của bà thì sao... Ờ nhỉ, dù thế nào thì nó vẫn đáng thương.... mái nhà này vẫn nên cần với mẹ con nó, thằng bé thích biển yêu biển đến thế cơ mà.
          Quên cái chân đau. Bà tấp tểnh đi tìm thằng Vường. Sực nhớ thằng Vường đã đi xuất khẩu lao động mấy năm nay rồi! Giời ơi lú lẫn hết rồi...Tìm ai bây giờ, nhờ ai bây giờ... bà tất tả chạy như người ngủ mơ, vừa chạy vừa lẩm bẩm:
          - Con cắn rơm cắn cỏ lạy Giời, lạy Phật, lạy Bồ tát cứu khổ cứu nạn. Cầu mong trên ban cho thằng bé không phải là cháu của con. Nếu con phải chết ngay cũng được, chỉ mong ban cho thằng bé không phải là cháu của con...


Đọc thêm!

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

KIẾP NGƯỜI (Truyện ngắn của Mai Tiến Nghị)

(Tiếp theo)


Một lần sau khi tắm cho thằng Sinh thì thấy thằng Vường hì hì cười:

          - Này thím này... Thằng Sinh nó thích lấy vợ rồi đấy!

          Bà bảo:

          - Cha tổ bố thằng khỉ... cứ đùa. Làm sao mà nó lấy được vợ! Có mà lấy chó...

          Thằng Vường toe toét:

          - Lúc cháu tắm cho cu cậu thấy giống to phết, cứng phết. Cháu mới bảo lấy vợ nhá. Nó cười...

Minh họa truyện "Kiếp người"- Báo Văn Nghệ số 45 ra ngày 8-11-2014
          Bà Sênh giật mình. Chả trách nhiều lần thấy thằng Sinh ngoẹo cổ nhìn xuống bụng ư ử khóc. Ừ nhỉ. Nó cũng là con người. Nó bằng tuổi thằng Vường, năm nay cũng hai nhăm tuổi rồi. Thằng Vường đã có vợ có con. Vậy mà thằng Sinh... chả biết còn được bao lâu nữa. Ôi chao, giá mà nó có con để bà được tý cháu.

          Nhưng chẳng ra người thì nó vẫn là một con người... Con vật cũng còn biết đến sự đực cái. Con bà vẫn còn bản năng giống má. Giá mà có người đàn bà nào chấp nhận nó nhỉ? Có họa điên... Làm gì có đứa nào. Nhưng biết đâu đấy...

          Bà bảo thằng Vường:

          - Mày xem có đám nào giúp nó với.

          Thằng này hô hố cười:

          - Đứa nào chịu lấy nó. May ra chỉ có ca ve...

          Bà Sênh mừng quá:

          - Cô Ve con nhà ai? Ở đâu?

          Thằng Vường rũ ra cười ngặt nghẽo, cười chảy cả nước mắt nước mũi:

          - Ối giời ôi... bà già Khốt ta bít. Làm gì có cô nào tên là Ve. Cháu nói là nói ca ve... là bọn gái làm tiền bên bãi Quất í...

          Câu nói thằng Sinh muốn lấy vợ, thằng Sinh có thể làm đàn ông đeo đẳng trong đầu bà Sênh. Cứ nhìn đến con, bà lại đau đáu cái ý nghĩ giá mà có đứa nào đồng ý... Chả nhẽ nó được sinh ra là một kiếp đàn ông hẳn hoi mà đến chết cũng chẳng thể biết đến đàn bà dẫu chỉ một lần.... Ôi chao sao con tôi thiệt thòi đến vậy. Dạo này trông nó ủ rũ, nhợt nhạt lắm... cả bữa không ép nổi lưng cơm. Linh cảm thấy sự phải đến đang sắp đến... Bà nơm nớp mỗi khi đêm về... ngày mai liệu con có còn được ở.

          Và hôm ấy... cuối làng có đám cúng 49 ngày cho người mới mất. Bà băn khoăn quá... ngày xưa chồng bà mất, các già đến đông đủ cầu nguyện cho vong linh siêu thoát. Giờ nhà người ta có việc, mình cũng phải được câu tụng niệm cho người đã khuất. Đấy là cái nghĩa ăn nết ở với làng với xóm. Nhưng còn vướng cu Sinh.

           Chập tối thằng Vường sang tắm cho Sinh, nó thấy bà băn khoăn thì bảo: Thím hôm nay có đi lễ đám bốn chín thì cứ đi. Để cháu trông thằng Sinh cho.

          Bà mừng quá. “Vậy giúp thím với nhé. Thật may có cháu...”

          Đám lễ xong khá muộn, hiếu chủ lại còn thành tâm mời các già thụ lộc nên gần nửa đêm bà mới về đến nhà. Thằng Vường chặn bà từ đầu ngõ. Nó thì thào:

          - Thằng Sinh nhà mình vậy mà đàn ông phết đấy thím nhá!

          - Cha tổ bố thằng khỉ, có vậy mà cứ nói mãi...

          Thằng Vường giải thích:

          - Không phải chuyện hôm nào đâu. Hôm nay cháu cho nó được làm đàn ông rồi. Tưởng không ra gì vậy mà lại được... Cháu đứng ngoài nghe...Gớm! Cu cậu sướng quá cười hệch hệch như máy nổ.

          Bà lão ngớ người chả hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao: thế nào là làm đàn ông, thế nào là được với không được.

          Thằng Vường bật bưỡng:

          - Cháu cho thằng Sinh biết tý rồi đấy. Lúc thím đi rồi, tắm cho nó xong, cháu phóng xe sang bãi Quất, tha về một đứa. Gớm thoạt đầu con này kêu “eo ơi, kinh”. Suýt cháu cho vài cái tát. Thế là nó khiếp phải vào với thằng Sinh. Vậy mà được. Thế mới hay.

          Đến lúc này thì bà hiểu ra. Giời ơi! Chết con tôi rồi! Như gà mái thấy quạ đang tha gà con... Bà cắm đầu chạy thẳng vào trong buồng. Luống cuống bật đèn. Trên giường, anh cu Sinh hấp háy mở mắt khi đèn sáng. Thấy bà, cậu chàng vội lật người ngoẹo cổ vào phía trong như bị chói đèn nhưng ý chừng vì ngượng. Bà nghe thấy tiếng hệch hệch...

          Bà già nhìn con rồi ôm ngực rũ xuống. Hú hồn! Định thần nhìn lại lần nữa: còn sống! Bà yên tâm bước ra ngoài. Trong tranh tối tranh sáng, bà Sênh nhìn thấy một đứa con gái: cha tổ bố nhà nó... trông gầy như cú rõm, chả ra cái hình hài đàn bà... Bà điên lên:

          - Cha tổ bố thằng khốn nạn. Cha tổ bố con... khốn nạn. Chúng mày định giết con tao à. Chúng mày thử xem nó có ra hồn người không... Xéo! Xéo ngay...

          Con ca ve khiếp quá nước mắt giàn giụa, run lẩy bẩy đứng dúm vào góc nhà. Còn thằng Vường thì hốt hoảng quỳ xuống chắp tay vái lấy vái để:

          - Con lạy thím, con lạy thím, thím đừng nói to... Xong rồi... chả việc gì. Mấy lị tại con thương thằng Sinh. Vài hôm nữa con đi xuất khẩu lao động... Khi về chả chắc còn gặp em... nên... nên... Lạy thím... tha cho con thím nhá.

          Bà lão rưng rưng. Cha tổ bố nhà nó. Chỉ được cái mồm khéo nói! Nghĩ cái tình anh em chúng nó với nhau như vậy cũng thấy ngoai ngoai. Vả lại con mình cũng chẳng việc gì.    

          Bà ra sân đứng. Con bé vẫn nép trong góc nhà. Thằng Vường lại chạy ra:

          - Tối nay thím cho nó ngủ ở đây mai “nó”  bắt xe ôm về bên bãi.

          Bà bảo: mày chở nó về! Thằng Vường nói không được đâu thím ơi. Đàn bà nhà con nó xé con thành trăm mảnh chứ chả chơi. Thôi thím cứ để nó ở đây. Cho chúng nó làm vợ chồng, không phải lăn tăn gì cả. Mà cháu cũng nói thật: chả phải lo gì đâu. Con này cũng dân quê, làm ca ve mà xấu như ma nên ế sưng ế sỉa. Cứ cho nó ở đây. Thím nhá...

          Bà không thèm nói. Nhưng chả nhẽ nửa đêm bắt “con bé” phải đi bộ về. Bà đành ngủ võng, nhường giường cho con ca ve.

          Bà già qua được cơn lo thì càng bực với thằng Vường. Cha tổ bố thằng khốn nạn. Ai khiến nó làm cái việc tầy giời này. Ngộ nếu chẳng may thằng Sinh có làm sao thì tội ấy ai chịu. Con ca ve thấy bà cáu kỉnh thì im thin thít.

           Đêm ấy cũng như đêm nay... cả đêm bà không ngủ được. Nghĩ đi rồi nghĩ lại. Thằng Vường nó thương con bà cũng là thằng đàn ông mà phải chịu thiệt thòi... nên nó mới làm thế. Thôi cũng chẳng thèm trách mắng chửi bới nó làm gì. Nhưng bà không thể tin được cô gái. Biết “nó” là người như thế nào. Bà không sợ bị mất trộm, nhà này thì có gì để mà mất nhưng vẫn lo lo.        

          Sáng sớm bà xuống bếp nấu cơm. Đang lúi húi nhóm bếp thì thấy đứa con gái vừa cuốn tóc vừa đi đến bên bà: “Bà để con làm cho”. Bà dịch sang bên nhường chỗ cho cô gái. Thấy nó cời gio, đưa nắm rạ vào bếp cũng gọn gàng... đúng là con nhà nông. Tự dưng thấy cảm tình. Định hỏi thăm gia cảnh, hỏi thăm vì sao mà phải đi làm nghề khốn nạn này. Nhưng chợt nhớ lời thằng Vường: “Đừng nghe ca ve kể chuyện” nên bà Sênh chỉ ngồi im lặng. Chả gì thì con giai của mình cũng đã chung đụng với “nó”. Một ngày nên ngãi. Nghĩ cái cảnh mua bán mà xót xa... Cha tổ bố nhà “nó”... đời hay thật.

          Lúc sắp cơm lên ăn bà dọn thêm một cái bát một đôi đũa. Thôi thì... cũng bảo nó ăn lưng cơm. Chả nhẽ để nó nhịn đói ra về. Bà gọi: “Mày ơi... vào ăn cơm”. Tiếng cô gái trả lời: “Bà cứ ăn cơm, con còn dở tý ạ”. Rồi bà thấy cô gái lễ mễ bê chậu nước và cái khăn vào trong buồng. Quái con bé này làm cái gì thế nhỉ. Bà ngó vào buồng: “nó” đang vực thằng Sinh dậy, rồi một tay “nó” quàng qua cổ con trai bà, tay kia “nó” đưa cái khăn đã vắt nước lau mặt lau mũi, lau cả những dãi rớt trên miệng trên cằm thằng Sinh. Khuôn mặt thằng Sinh hồng hào hơn. Đôi mắt trố cũng linh hoạt hơn và cái miệng kêu hệch hệch...

          Mắt bà lão nhòa đi... Cha tổ bố nhà “nó”... Giá mà ...

*

*   *

          Bây giờ thì “nó” đang ở trong nhà bà, đang ngủ trên cái giường mà “nó” đã cùng con trai bà... 
(còn tiếp)
Đọc thêm!

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

TẬP TRUYỆN NGẮN: "NỢ NHÂN GIAN" CỦA MAI TIẾN NGHỊ

Mai Tiến Nghị-Liên kết Công ty Văn hóa Đất Việt- đã ra tập truyện ngắn "Nợ Nhân gian" - . Sách gồm 15 truyện ngắn chọn lọc của Mai Tiến Nghị.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Xin liên hệ Công ty Văn hóa Đất Việt (28- ngõ 308 Minh Khai - Hai Bà Trưng- Hà Nội) Đọc thêm!

Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2014

KIẾP NGƯỜI (Truyện ngắn của Mai Tiến Nghị)

Báo Văn Nghệ (HNV) số 45 (08-11-2014) đã đăng truyện ngắn: KIẾP NGƯỜI của Mai Tiến Nghị. Xin trân trọng giới thiệu với các bạn trong ba kỳ.



Giời với đất dạo này chả ra làm sao. Nhìn bên ngoài thấy sương giăng giăng tưởng là lạnh mà trong nhà thì nóng hầm hập. Đã thế cái võng lại kẽo kẹt kẽo kẹt... điếc cả tai. Sốt ruột, bà Sênh lấy nước đổ vào cái khoẳm võng nhưng cũng chỉ được một lúc là lại kẽo kẹt... Thành thử cứ mơ mơ màng màng như người ốm dở. Khó ngủ... bà lão ngồi dậy: Làm gì bây giờ. Mới hơn ba giờ sáng chứ mấy. Làm gì bây giờ?

          Bần thần một lúc, đầu óc lơ mơ nặng chình chịch. Khéo ốm mất. Vậy phải dậy. Ngáp một cái, vươn vai một cái, bà rời võng lần đến góc nhà. Mắt nhắm mắt mở, quờ tay vớ được cái chai... đây rồi. Bà nâng cái chai lên, giương cặp mắt kèm nhèm nhìn qua ánh sáng vàng vọt bởi cái bóng điện ngoài cửa. Vẫn còn. Làm một hớp “phu phong” cả ngày. Ngửa cổ dốc một hơi... cay nồng, tê tê... Nuốt. Râm ran từ đầu lưỡi đến vòm miệng lan qua cổ họng. Nóng trong ngực, rồi cái cảm giác nóng ấy khơi thông mạch máu lan đến đỉnh đầu, khơi thông cái mạch hỗn độn u tịch trong đầu. À bây giờ thì khá hơn rồi. Cha tổ bố nhà nó... cái giống rượu vậy mà hay thật.

          Đúng vậy! Cái giống rượu vậy mà hay. Nó đã đỡ bà dậy kể từ khi đứa con trai của bà cũng bỏ đi theo bố nó. Khi người ta đưa con bà đi, bà thấy đất giời rỗng rễnh... Chả có gì... cứ trống hoang hoác... vậy từ nay có mình ta trong cái hoang hoác, chống chếnh này... ta còn gì ...chả còn gì, đến cái ảnh của đứa con cũng chả có. Ai chụp ảnh cái thằng người dị dạng. Giời sao ác thế. Nhìn cái bát hương khói nghi ngút... cháy đi cháy đi, nghi ngút đi... rồi mai đây ta cũng chẳng còn chẳng còn ai nhang khói, và cả ta nữa cũng chẳng ai nhang khói...Cha tổ bố nó... Đời vậy mà ác. Bà muốn đập hết đập hết... để cũng chả làm gì. Nhà cửa, bàn ghế, của cải mâm bàn bát đĩa đập ráo. Cho nó tan tành hết. Bà vớ lấy chai rượu trên bàn thờ con giai. Nào đập!... tự dưng bà cảm thấy khát. Ơ hay... sao lại khát? Khát thì uống. Vậy là ngửa cổ tu. Lạy giời... chả biết vì cái thứ nước lạnh của rượu hay vì cái cay mà nóng rát ở cổ. Cái nóng rát chạy vào bụng lại làm cái đầu tự dưng tỉnh táo ra: Ô lạ thế. Sao lại phải thế? Mình đã lo cho con giai những thứ nó cần ở trên cõi đời này rồi. Có đau cũng là sự đã rồi... Bà uống rượu từ ngày ấy.

          Bây giờ trong đầu hiện ra những nỗi lo. Vì những nỗi lo ấy mà bà phải sống. Đến tháng mười này thì ông ấy đã được mười năm, thằng con giai đã được năm năm...dăm năm là được rồi. Cuối năm phải tắm rửa cho hai bố con. Để bố con ông ấy sạch sẽ mồ yên mả đẹp. Để yên tâm. Rồi thì mình còn được ngày nào biết được ngày đó. Cũng bảy mươi rồi còn gì...

          Và còn nỗi lo nữa... “nó” đang trong nhà bà. Đang nằm ngủ trên cái giường mà con bà ngày xưa vẫn nằm. Và không phải chỉ có mình “nó”...

*

*       *

          Bà Sênh vừa bén hơi chồng đã phải xa chồng vì chiến tranh. Hơn mười năm đánh nhau đã biến chồng bà từ một chàng trai khôi ngô thành một ông già hốc hác tiều tụy... khi ông Sênh chiến thắng trở về. Dù sao vẫn hơn những người không trở về. Mừng mừng tủi tủi, họ lao vào nhau cho thỏa khao khát chờ đợi... nhưng cũng ê chề bởi không thể tìm lại cảm giác ngày xưa. Và cả vợ cả chồng chợt nhận ra một chục năm hoang phí... để bây giờ dẫu nồng đượm nhưng vẫn nhợt nhạt, dù thèm khát nhưng cũng chẳng bõ bèn.... Cũng may vì cái sự nhợt nhạt ấy còn có kết quả: Thằng bé Sinh ra đời khi bà đã tuổi ngót bốn mươi...

          Lúc còn bé, Sinh mạnh khỏe, hay ăn mau lớn, học hành sáng dạ. Đi về hai vợ chồng nhìn con mà ngất ngây hạnh phúc. Đó là những ngày đẹp nhất của cuộc đời bà Sênh.

          Nhưng đến khi Sinh mười lăm tuổi thì bắt đầu có chuyện. Tự dưng đi học về thằng bé kêu đau đầu... rồi kêu mắt mờ. Đi kiểm tra người ta bảo di chứng chất độc da cam... Hai ông bà chạy chữa đưa con hết bệnh viện nọ đến bệnh viện kia. Chỉ thấy bệnh nặng thêm... Như là một cái cây đang xanh tốt tự dưng gặp sâu độc làm cho dở sống dở chết quặt quẹo lắt lay. Thằng Sinh đang dậy thì trổ mã đột nhiên biến dạng. Đôi chân teo tóp như cành núc nác khuyều khoào trên giường và mất luôn khả năng đi lại. Còn đôi tay lòng thòng mềm nhũn... không cầm nổi cái thìa xúc cơm. Để bù lại thì cái đầu xù ra to quá khổ với đôi mắt lồi trô trố, cặp môi dày lên, dệch ra... lúc nào cũng dãi rớt lòng thòng nhểu nhểu thành những sợi như sợi tơ. Giọng nói khàn khàn thời kỳ vỡ giọng hóa thành tiếng khào khào như thể tiếng mèo... Tiếng cười ngân dài trong vắt vỡ vụn thành những mảnh rời rạc hệch hệch... Chỉ có tiếng khóc là không biến dạng, vẫn vẹn nguyên âm thanh nức nở. Những lúc ấy nước mắt ròng ròng trên khuôn mặt dị dạng nhòe nhoẹt cùng dãi dớt từ mũi, từ cái mồm méo xệch...

          Ông Sênh trở nên lo lắng buồn bực, mặt mũi lúc nào cũng đờ đẫn đăm chiêu. Mỗi khi nhìn con ông lại ứa nước mắt rồi lại lấm lét nhìn sang bà. Trông ông như người đang cố gắng giấu giếm tội ngoại tình. Bà nhìn cái hình hài méo mó biến dạng từng ngày của con trai mà vừa đau vừa ấm ức: Cha tổ bố nhà nó... chiến tranh với chả đánh nhau. Mà có đánh nhau thì còn người nào thì cũng phải cho ra cái con người... Trèo lên, tụt xuống ê chề, mãi mới có được tý con. Tưởng giời thương rằng bù lại, ai ngờ giời bắt tật nguyền.... Giá mà bà biết nói lời an ủi. Nhưng bà không thể, vì tính bà ăn sóng nói gió bộc tuyệch bộc toạc. Bà cũng chả giấu nỗi khổ của mình. Bà rên rỉ đỉ đau. Tôi đẻ con ra lành lặn tinh khôi có khiếm khuyết gì đâu. Vậy mà thành ra có tội: Tội không che chắn được cho con để nó phải chịu đọa đày. Ô hay... sinh đẻ, nuôi con là cái nhẽ tồn tại ở đời mà thành ra có tội. Giá mà bà chịu thay được cho con để nó lành lặn tử tế. Nhưng điều ấy lại càng không thể.

          Rồi ông ấy “đi”. Cũng đau đầu, cũng kêu mờ mắt, cũng nhũn nhão chân tay. Nhanh lắm... chỉ có mấy ngày.

          Đến lúc ấy bà bàng hoàng... Ông đã khốn khổ mấy chục năm đánh nhau, khốn khổ vì những lúc không vừa lòng bà, lại còn khốn khổ vì nỗi con bệnh tật. Ông đâu có phút nào được thảnh thơi. Hay là giời đổi cái chết sang cho ông để con giai khỏe lại. Nhưng không phải. Ông chết chỉ là sự giải thoát cho riêng mình. Nỗi lo, nỗi đau chung vẫn còn nguyên vẹn... Từ nay mình bà phải gánh gồng chịu đựng. Chịu đựng trong lạnh lẽo đơn chiếc sớm tối mưu sinh và đứa con hình hài dị dạng cần chăm sóc .

          Cũng may có hàng xóm chia sẻ với bà. Họ đi về câu chuyện câu trò làm bà khuây khỏa phần nào. Thằng Vường cũng trạc tuổi Sinh, nó ở cùng ngõ cách hai nhà; thường vài ba ngày một lần nó sang giúp bà tắm rửa cho thằng Sinh. Trước đây việc ấy là của ông Sênh. Nhưng ông mất rồi thì bà không thể làm. Không thể làm vì cu cậu không chịu, cứ lắc đầu nguây nguẩy ra cái vẻ ngượng rồi văng mình xoay lông lốc như bao gạo dăm sáu chục kí lô... sức bà không sao vần nổi. Đã thế nó lại còn khóc lóc. Cha tổ bố nhà nó... Cũng biết ngượng... Tôi còn đẻ ra anh cơ đấy. Từ khi được thằng Vường giúp thì bà cũng tạm yên tâm.

          Một lần sau khi tắm cho thằng Sinh thì thấy thằng Vường hì hì cười:

          - Này thím này... Thằng Sinh nó thích lấy vợ rồi đấy!

          Bà bảo:

          - Cha tổ bố thằng khỉ... cứ đùa. Làm sao mà nó lấy được vợ! Có mà lấy chó...

          Thằng Vường toe toét:

          - Lúc cháu tắm cho cu cậu thấy giống to phết, cứng phết. Cháu mới bảo lấy vợ nhá. Nó cười...

          Bà Sênh giật mình. Chả trách nhiều lần thấy thằng Sinh ngoẹo cổ nhìn xuống bụng ư ử khóc. Ừ nhỉ. Nó cũng là con người. Nó bằng tuổi thằng Vường, năm nay cũng hai nhăm tuổi rồi. Thằng Vường đã có vợ có con. Vậy mà thằng Sinh... chả biết còn được bao lâu nữa. Ôi chao, giá mà nó có con để bà được tý cháu.
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

ĐÊM KINH THÀNH


               


   TRUYỆN NGẮN CỦA MAI TIẾN NGHỊ


          Đêm kinh thành Hoa Lư. Đã nghe trống điểm canh năm, chuẩn bị sang ngày mới. Trăng hạ tuần lơ lửng trên đỉnh Mã Yên. Mấy ngọn tinh kỳ nơi cửa các vương phủ rũ rượi vì ướt sương đêm. Thỉnh thoảng một cơn gió ngang qua, những dải phướn tinh kỳ gượng rướn lên rồi lại rũ xuống mệt mỏi.
          Thoảng tiếng gió thổi, lau khua lào xào như tiếng thở dài nhè nhẹ… nhưng bị nhấn chìm ngay bởi tiếng bước chân những người lính đi tuần. Lạt xạt, lạt xạt… giày cỏ nặng nề lê trên nền đá. Chập chờn, chập chờn bóng những người lính nón dứa áo cộc mờ ảo khuất về nẻo cuối đường.
          Phủ Vệ Vương lạnh ngắt như không người. Trên bàn thờ trong chính điện, trước bài vị sơ sài leo lét ngọn bạch lạp toả chút ánh sáng chập chờn như muốn nâng làn khói trầm đang lởn vởn bay lên… nhưng làn khói hư ảo ấy lại bị kéo xuống bởi bóng đêm thăm thẳm phía chân đèn.
          Trước linh sàng một người quỳ bất động đầu đổ gục, đuôi tóc rũ xuống trước trán in bóng trên vách gỗ như thể bông lau bị bẻ gẫy gập trước gió xõa xợi tả tơi.
          Người đó là Trần Sinh. Một gia tướng của Vệ Vương.
            Trong tĩnh lặng chỉ có tiếng lòng:
          - Chủ Vương! Tôi có lỗi với Người. Đáng lẽ tôi phải theo đi cùng Người dẹp giặc. Nếu gặp tên đạn biết đâu sẽ là khiên chắn cho Người. Nhưng sao Người chẳng cho. Phải chăng linh tính mách bảo, hay người đã tiên liệu sự thể trong bàn cờ thế sự. Thương ơi, nước cờ cuộc đời chỉ sai một ly là đi một dặm. Ai ngờ nên nỗi. Tiên Đế ơi! Thần đã phụ sự uỷ thác của Tiên Đế. Lời dặn của Tiên Đế phải bên cạnh Vệ Vương như thủ túc mà chở che. Cũng bởi vì kẻ tiếm quyền quá nham hiểm, còn người trong cuộc quá khạo khờ nên gây ra cảnh đất nước tang thương nồi da xáo thịt. Các bậc công thần lần lượt hy sinh. Bên cạnh Chủ Vương chẳng còn ai phò trợ, người đàn bà kia vì đam mê dục tình mà làm tay trong cho kẻ sát phu, ngộ nhận sự yêu thương đến nỗi đưa đứa con dứt ruột của mình vào miệng cọp dữ.
          Chủ Vương ơi. Kẻ hèn này tuổi mới lên mười theo cha nghiệp thợ đá vào cung theo mệnh của Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ làm chùa thạch trụ khắc kinh Nghiêm Hoa của Đức Phật. Tôi lúc nhỏ nào đã biết chi, nhưng nghe cha nói bởi Tiết độ sứ Đinh Liễn mang trọng tội giết em út là đương kim Thái Tử. Đáng lẽ theo luật Vua phải xử giảo, nhưng bởi có công gian nan cùng Tiên đế bình thập nhị sứ quân lập Cồ Việt quốc nên cho được ăn năn sám hối. Lệnh Vua thì phải làm chứ chắc gì Tiết độ sứ đã thành tâm. Tưởng mình chỉ dưới một người trên vạn người thì kẻ nào dám dòm dám ngó. Thói đời đành chịu nhún người trên chứ mấy khi phòng bị kẻ dưới. Phàm là kẻ dưới mà tham tiền ắt phải mưu ma qua mặt, tham quyền lực ắt phải sinh chước quỷ bạo tàn… Và người đang ở ngôi cao, đang nơi sáng… làm sao mà nhìn thấy trong chỗ tối đang có kẻ gian manh thâm hiểm rình mò thừa cơ ra đòn trở cờ đảo thế.
          Không gian nặng nề u tịch. Chợt nghe tiếng ào ào như tiếng sấm rền, cái u tịch lặng lẽ bị vỡ vụn. Trần Sinh giật mình. Tiếng gì thế nhỉ? Chàng gục đầu lạy ba lạy trước bàn thờ người chủ của mình và lùi ra khỏi chính điện. Tiếng ầm ào đã bớt nhưng thấy ở phía cung điện nhà vua nhoà nhoà một quầng đỏ gắt. Quầng sáng ấy như vết đỏ máu loang trong không gian bàng bạc ánh trăng. Chắc là bên ấy chưa tàn cuộc vui mừng công thắng giặc Cử Long. Chiến thắng! Chiến thắng và niềm vui đến với họ còn nỗi đau, nỗi lạnh lẽo đang ở nơi này.
          Trần Sinh nhớ lại ngày bắt đầu theo cha vào kinh làm chùa Thạch trụ. Lúc ấy chàng mới là chú bé tuổi lên mười, cha cho đi để truyền nghề. Lúc đầu thì ngày ngày cầm đá ráp mài thạch trụ. Sau quen dần với công việc được cha dạy cầm đục chạm tỉa tót những hoa văn bát đấu, đường viền của những câu kinh sau khi đã được cha đục “phá”. Công việc nhẹ nhàng phù hợp với vóc dáng trẻ con. Cũng từ công việc ấy mà cậu bé Sinh thuộc lòng các nét vẽ cùng với sự khéo tay bẩm sinh do cha truyền lại mà chàng trở thành người thợ lành nghề.
(Minh họa : Nguyễn Đăng Phú)
          Hàng ngày cung nữ dắt Hoàng Tử Toàn mới hơn năm tuổi đi chơi qua chỗ làm của những người thợ đá. Hoàng Tử thích thú khi nhìn thấy một cậu nhỏ chỉ nhỉnh hơn mình một tý cũng làm việc. Có những lúc Hoàng Tử sà vào tận chỗ Sinh, chăm chú xem bàn tay khéo léo của cậu thợ nhỏ, thích thú sờ tận tay những hoa văn vừa đục chạm, ngắm nghía không chán mắt những nét vẽ, đường viền. Khi ấy Sinh buộc phải dừng công việc vì sợ bụi đá bắn vào Hoàng tử. Rồi cậu tìm cách bày ra những trò chơi chốn thôn quê để ông Hoàng nhỏ được vừa lòng. Từ đấy Hoàng tử ngày nào cũng đòi ra chỗ Sinh để được chơi. Có hôm mải chơi quá mà ông Hoàng chẳng chịu ra về mặc kệ đám cung nữ vật nài nhắc nhở.
          Cũng bởi vậy mà Dương Hậu chọn Trần Sinh để làm bạn và sau này sẽ là người bảo vệ Hoàng tử Toàn. Ý Tiên Đế không muốn, nhưng Dương Hậu khóc lóc rằng Bệ Hạ muốn con ta phải là người dũng mãnh cho xứng với Người, dẫu rằng hổ phụ sinh hổ tử nhưng để nó suốt ngày ru rú trong cung, ra vào lúc nào cũng chỉ có lũ đàn bà yểu điệu tha thướt làm dáng làm duyên để lấy lòng thì sao có thể được. Không nỡ làm mất lòng vị Hoàng Hậu mà mình sủng ái, Tiên Đế đành chấp nhận. Vậy nên khi chùa Thạch trụ làm xong thì Sinh phải chia tay với cha để ở lại hầu hạ Hoàng Tử. Hàng ngày hai người cùng học chữ, cùng tập luyện võ nghệ. Rảnh rỗi lại kéo nhau trèo lên đỉnh Mã Yên ngắm nhìn toàn bộ kinh thành cung điện nguy nga, các vương phủ san sát mái ngói lưu ly ánh ngời trong nắng; có lần còn cùng nhau la cà ra tận cầu Dền xem chợ rồi về muộn làm bọn cung nhân tá hoả đi tìm.
          Khi Sinh mười năm tuổi thì Vương tuổi lên mười, đã trở thành phế đế được ba năm.
          Một hôm nhân lúc chỉ có hai người, Vương ghé tai Trần Sinh thì thào:
          - Mẹ ta bảo hai chúng mình từ nay nếu có tập võ thì tập ở trong phòng đóng kín cửa, đừng hò hét. Mẹ ta còn bảo đừng có đi chơi đâu xa, chỉ nên quanh quẩn ở nhà… kẻo rước hoạ vào thân.
          Trần Sinh hỏi lại:
          - Thưa… Sao lại phải thế ạ?
          Vương trả lời:
          - Ta không biết! Chỉ nghe mẹ ta nói nhỏ với ta như vậy. Mà huynh cũng phải cẩn thận. Những gì ta nói, mẹ ta nói… thì đừng nói với ai.
          Trần Sinh không hiểu gì lắm nhưng lờ mờ nhận ra có một mối nguy hiểm đang lơ lửng treo trên đầu hai người. Mãi sau này mới biết Vua mới tuy phong Phế đế làm Vệ vương để lấy lòng Dương Hậu nhưng vẫn sợ có nhiều thân tín của tiền triều sẽ kết bè kết đảng lợi dụng danh nghĩa Vệ Vương vốn là vua cũ để chống lại mình. Vậy nên trong phủ Vương cũng chỉ có mấy người giúp việc cùng với Trần Sinh. Những người giúp việc ấy do Triều đình cắt cử sang cơm nước nhưng họ là tai mắt theo dõi nhất cử nhất động trong phủ ngày ngày báo về triều đình.
          Vệ Vương từ ấy cũng không đi đâu, suốt ngày chỉ đọc sách, rồi thần mặt ngồi ngẫm ngợi. Những lúc ấy trên khuôn mặt thông minh của Vương hằn lên những nét u ám, mệt mỏi. Nhìn Vương mới ở tuổi vị thành niên mà buồn bã như vậy Sinh không khỏi nao lòng. Chàng bảo Vương đọc nhiều quá, ngẫm ngợi nhiều quá ắt sinh trì trệ. Hay là thỉnh thoảng làm văn, làm thơ cho thoải mái. Vương vốn thông minh tài giỏi nên chắc chắn sẽ để lại những tuyệt tác văn chương cho hậu thế. Vương buồn bã trả lời:
          - Huynh bảo ta làm sao có thể làm thơ, làm văn. Làm thơ văn thì phải tụng ca ngâm ngợi hỉ hoan, nhưng với tâm trạng này của ta thì nỗi buồn đau sẽ ám vào câu vào chữ. Rồi biết đâu hoạ cũng từ đấy mà ra. Thường nhật biết bao đầu rơi máu chảy cũng vì việc ấy… Hay là huynh dạy ta cách chạm đá như ngày xưa.
          Trần Sinh lễ phép thưa:
          - Thưa Chủ Vương: Bậc tôn quý không thể lam lũ lao động chân tay. Nghề chạm đá tạo ra tượng Phật Thánh, xây dựng lên nơi tôn nghiêm… nhưng người thợ đá là kẻ thấp hèn không bao giờ dám sánh ngang Phật Thánh, chẳng mấy khi được lui tới chốn tôn nghiêm. Vậy nên Chủ Vương không thể học nghề chạm đá được ạ. Nếu buộc phải theo ý của Chủ Vương thì tôi sẽ là người mang trọng tội với Lệnh bà Dương Hậu!
          Ngẫm nghĩ một lát rồi chàng nói tiếp:
          - Tôi nghĩ Chủ Vương có thể học vẽ để giải sầu. Trong cõi nghệ thuật phàm những gì kiệm nhời nhất mà tỏ rõ được ý tình nhiều nhất thì được coi là tinh diệu nhất. Bởi vậy xếp theo thứ bậc từ dưới lên trên thì văn, thơ, nhạc rồi cao nhất là họa. Tôi vốn từ lao động chân tay không biết đến nhạc, có chăng chỉ vài ba câu hát thô thiển nơi dân dã. Nhưng nhờ trước đây làm nghề thợ chạm đá mà góp nhặt được chút ít cái đẹp, cái hay ở thiên hạ nên cũng biết vẽ vời tý chút. Vậy tôi xin được hầu Người học vẽ.
          Vệ Vương mừng rỡ giục Trần Sinh dạy vẽ ngay.
          Từ đấy hàng mấy năm giời Vương học vẽ miệt mài dưới sự hướng dẫn của Trần Sinh. Rồi chả mấy chốc mà cái vốn vẽ vời của Trần Sinh cũng cạn vì thực ra chàng cũng đâu có được học nhiều. May là Vương cũng có hoa tay về hội hoạ và trí thông minh nên học ít hiểu nhiều. Những tranh  phong cảnh, hoa lá, tứ bình, tứ quý… được Vương vẽ trên giấy dó, trên lụa đã xếp thành chồng cao nơi thư phòng. Vương vui vẻ hơn, thần sắc cũng trở nên thư thái khoan hoà khác hẳn ngày trước, khiến Dương Hậu rất vừa lòng.
           Hoa nào rực rỡ nhất cũng phải đến lúc phai… Với vị vua có tới sáu Hoàng Hậu cùng hàng trăm cung tần mỹ nữ thì lúc này Dương Hậu tuổi đã hơn năm mươi đang dần bị thất sủng. Điều ấy đồng nghĩa với việc tính mạng con bà khó được bảo toàn trong khi mười mấy Hoàng tử đang lo tranh ngôi Thái Tử sau khi người được sắc phong đột ngột qua đời. Chắc chắn con bà không thể tranh giành, nhưng thói thường muốn giành chức đoạt ngôi thì phải kết bè kéo cánh. Hệ luỵ sẽ từ đấy mà ra. Bà lo nếu để Trần Sinh ra về thì lấy ai sớm tối bên cạnh can gián bảo vệ con mình, vì vậy nên cố giữ.
          Lần lữa tháng ngày… cả hai đều cứng tuổi mà vẫn chưa người nào thành gia thất. Năm ngoái Dương Hoàng Hậu đổ bệnh và mất.
          Vệ Vương buồn bã, đau đáu suy tư, hàng mấy tháng không động đến bút vẽ. Có những lúc thất thần lo lắng người bơ phờ. Bọn gia nhân ra sức hỏi han chăm sóc nhưng Vệ Vương chỉ nín lặng.
          Vài tháng trước thấy Vệ Vương đột ngột tươi tỉnh. Đó là khi Vương nhận được chiếu chỉ của Hoàng Đế lĩnh ấn Phó Tướng trong việc dẹp giặc Cử Long ở Ái châu. Trận này do Hoàng Đế đích thân thống lĩnh chỉ huy. Các Hoàng Tử khác đều xin ra trận lập công nhưng Vua không cho mà chỉ chọn Vệ Vương. Phải chăng Người nhớ thương Dương Hậu- người tình đã cùng với mình lao tâm khổ trí tìm kế lấy ngôi Thiên tử… Hay Người muốn ban mưa móc của Quân Vương với thần tử như những người khác, và hơn nữa muốn sưởi ấm tình cảm của người cha dượng đối với nghĩa tử, bù đắp những cô đơn thiệt thòi mà Vương đã gánh chịu từ khi lên bảy tuổi.
          Lập công chiến thắng trở về là một điều chắc chắn vì Cử Long chỉ có ba bốn trăm quân ô hợp, trong khi đó Vua thân đốc suất ba ngàn lính tinh nhuệ thuỷ bộ tấn công. Lúc đó Vệ Vương sẽ trở thành một công thần của triều đình; không còn cam chịu là phế đế cô đơn trong biệt phủ tiêu điều như một lãnh cung.
          Trần Sinh mừng khôn xiết.
          Nhưng bây giờ Vệ Vương đã tử trận!  
          Trong đoàn người ra đón mừng Vua cùng đại quân chiến thắng khải hoàn, thấy Vua tỏ vẻ buồn rầu mà lại không thấy Vệ vương bên cạnh, Trần Sinh đã thất thần lo lắng có điều gì không hay với Chủ Vương của mình. Chàng đau đớn khi nghe thông báo rằng Vệ Vương đã tử trận một cách anh dũng xứng danh Phó Tướng của bậc minh quân.
          Người ta kể: Vua cùng Phó tướng Vệ Vương mỗi người chỉ huy một chiến thuyền, thuyền Vua đi đầu kế theo là thuyền của Vệ Vương theo sát tiến vào trận. Hai người giáp trụ uy nghi đứng ở hai mũi thuyền, quân sĩ hừng hực khí thế, các tay chèo gồng mình đưa mái chèo khua thoăn thoắt, chiến thuyền ngược nước rẽ sóng phăng phăng. Chợt từ trên bờ tên bắn xuống như mưa. Giặc Cử Long phục kích! Chúng nhằm thuyền Vua, thuyền Vệ Vương mà bắn. Tên lao vun vút về phía Vua, về phía Vệ Vương. Nhưng lạ thay tất cả các mũi tên trước Vua đều tự dưng khựng lại như gặp phải một tấm khiên vô hình và rụng lả tả chỉ cách vua vài thước. Còn Vệ Vương bị trúng tên vào cổ và gục xuống. Vua thấy thế vội nhảy sang thuyền Vệ Vương, quỳ xuống đỡ phó tướng của mình lên, cúi nhìn tận mặt. Nước mắt Người ròng ròng khi thấy Vệ Vương đã chết... Đứng dậy... hộc lên một tiếng đau đớn rồi Vua thét: “Đánh!”. Quân sĩ ai cũng cảm động bởi tấm lòng của Vua, thuỷ bộ nhất loạt xông lên phối hợp diệt sạch quân giặc không cho tên nào được thoát.
          Trần Sinh nghe kể mà lòng đau như cắt, sụp xuống trong khi mọi người trầm trồ: “Vua ta đã có trời giúp”… “Vua ta đúng là có Chân mệnh Thiên tử!” Tên bắn mà không thể chạm tới Người.
          Nhớ lại cái giờ khắc đau thương ấy, Trần Sinh thở dài. Tự nhiên chàng băn khoăn: “… Trời giúp…chân mệnh Thiên tử” Chả nhẽ có như vậy thật sao? Phải chăng…? Hà cớ gì trong bao nhiêu người con hưởng tước Vương, bao nhiêu Đại tướng dạn dày trận mạc… Vua lại chọn Vệ Vương- một phế đế, một thanh niên tuổi mới hơn hai mươi chưa từng kinh qua trận mạc? Hà cớ gì Vệ Vương phải ra trận khi Dương hậu vừa mất? Hà cớ gì những mũi tên của giặc như biết dừng đúng lúc? Hà cớ gì những mũi tên lại chọn đúng một mục tiêu? Hà cớ gì giặc Cử Long không một người sống sót?... Những câu hỏi “hà cớ gì” xoáy trong đầu Trần Sinh. Chàng tự trả lời và phát hiện ra nó cùng chung một câu trả lời: Vệ Vương phải chết! Phải rồi! Để vững bền ngai vàng của Đức vua đương triều thì Phế đế- Vệ Vương phải chết!
          Trần Sinh rùng mình. Vậy còn ta… hầu cận thân tín của Vệ Vương? Có thể bây giờ còn được yên ổn. Nhưng ngày mai ngày kia… Ai dám chắc.  Cảm giác vừa lo sợ vừa cô đơn trống vắng ùa đến làm chàng bải hoải. Ta phải mau từ bỏ chốn này. Thân cô thế cô chốn kinh thành, lại là người của Vương thì đâu có thể được yên.
          Chàng quay vào nhà thắp thêm một tuần hương, cúi đầu trước bài vị của Vệ vương miệng lầm rầm khấn:
          -Kính lạy anh linh Đinh Toàn Hoàng đế. Kẻ hèn này từ nhỏ được hưởng ơn Tiên Đế, hưởng lộc của Đinh Hoàng đế hàng ngày. Dẫu là kẻ hầu hạ mà vẫn được Người ban cho tình như huynh đệ. Đã nguyện suốt đời tận trung để hầu hạ Người. Nay chẳng may Người phải theo Tiên Đế về giời. Những toan phải quyên sinh theo Người để vẹn chữ Trung. Nhưng ngặt vì còn nặng chữ Hiếu với tổ phụ nơi quê nhà nên phải hồi hương, đành đắc tội với Người. Mấy nén nhang này xin thắp trước linh vị, sau đó xin được đem chân nhang về thờ tự nơi trú ngụ, truyền cho con cháu đời đời hương khói để ấm lòng người đã khuất. Cúi xin Anh linh chấp nhận lời thỉnh cầu của kẻ hèn mọn này.
          Khấn vừa xong chợt thấy bát nhang cháy bùng bùng. Hương đã hoá.  Ngọn lửa trên bát nhang quằn quại rừng rực bốc cao… Những chữ thếp vàng trên bài vị của Vệ Vương phản chiếu ánh lửa loé lên. Trong tiềm thức Trần Sinh chập chờn ánh mắt của Vệ Vương vừa u buồn vừa khích lệ từ nơi xa thẳm… Trên cao Phế đế đã chuẩn lời khấn của chàng.
          - Trần huynh… Huynh định bỏ nơi này? Một tiếng nói nhỏ cất lên.
          Sinh giật mình quay lại.
          Trong ánh lửa của bát hương đang cháy, Sinh thấy một người hầu gái trong phủ đang đứng trước mặt. Chàng ngỡ ngàng: Sao cô ta lại ở đây vào lúc này? Đang theo dõi ta chăng? Từ trước đến nay chàng rất ít tiếp xúc với cánh đàn ông ở phủ vì cảnh giác sợ họ tọc mạch dò hỏi biết những câu chuyện riêng giữa Vệ Vương nói với chàng. Chàng cũng không dám nhìn, không dám ngắm, và lánh xa bọn hầu gái vì chàng biết nếu chỉ cần có bất cứ động thái nào tỏ vẻ hứng thú với đàn bà thì sẽ bị cung hình ngay lập tức. Cố giữ mình để bảo toàn mạng sống, bảo toàn nguyên vẹn hình hài bản năng chính là để bảo vệ Chủ Vương của mình.
           Chàng nhận thấy trước chàng là một người con gái đẹp. Người con gái ấy khẽ nói:
          - Huynh nên đi khỏi nơi này! Tôi định nói điều này từ lâu nhưng rất khó gặp huynh. Tôi có ý tìm lúc thuận tiện, bây giờ không còn nhiều thời gian để chần chừ nên tôi thức suốt đêm chờ mọi người đã ngủ im để nói với huynh. Nào ngờ nghe lời khấn của huynh thì tôi biết là Chủ Vương đã dun dủi…  Mấy tháng trước khi Dương Hậu mất, có người trong phủ lẻn vào thư phòng của Vệ Vương lấy được một bức tranh, người đó dâng lên Thánh Thượng…
          - Tranh nào?
          - Tranh vẽ rồng… Tôi chỉ nghe họ nói vậy chứ không được xem tranh. Dưng mà theo nhời người ấy thì Bệ hạ xem tranh xong tỏ vẻ rất tức giận. Mặt Thánh thượng đanh lại, miệng lẩm bẩm: Nghịch tặc! Sao dám coi nghiệp đế của ta có được bởi tay đàn bà?
          Ra thế... Tranh vẽ rồng… Đúng là Vệ Vương có vẽ một bức tranh Rồng...
          - Nhưng bức tranh ấy bây giờ ta vẫn thấy trong thư phòng?
(Minh họa: Nguyễn Đăng Phú)
          - Vâng… tất cả các tranh của Vệ Vương đều được bí mật lấy về cho Vua xem và  bí mật trả về chỗ cũ.
          Trần Sinh nhớ lại khi Dương Hậu ốm nặng thì ngày nào Vệ Vương cũng sang thăm. Sau một cuộc viếng thăm như vậy thấy Vệ Vương vào ngay thư phòng ngồi vẽ. Sợ kinh động cảm hứng của Vương, Sinh chỉ đứng ngoài cửa gác như mọi lần. Đến khi Vệ Vương gọi thì chàng mới dám vào. Vương chỉ tấm lụa vừa vẽ: trên đó là một con rồng dũng mãnh nhe nanh múa vuốt. Nhưng chân rồng là những cánh tay đàn bà. Những cánh tay này túm chặt lấy sừng, bờm và cả râu rồng… xung quanh rồng láo nháo những chồn, chuột rình mò, cá lớn đuổi nuốt cá bé… Sinh không hiểu thì Vệ Vương nói:
          - Sau khi Phụ Hoàng ta mất, họ Lê nắm binh quyền có ý đoạt ngôi, ta được các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp cõng chạy vào Tràng An lánh nạn và hội quân chống lại thì các vị đã từng nói với ta về mưu mô kẻ thù phương Bắc: Nó thấy Vua ta đại định thì tức tối. Vậy nên khi Huynh trưởng Đinh Liễn đi sứ sang đất Tống, lúc về có sứ Tống đi theo mang sắc phong Vương cho Tiên Hoàng mà lại còn kèm ấn Tĩnh hải quân Tiết độ sứ cho Huynh trưởng thì ắt có chuyện xảy ra. Bởi cái chí của Tiên Hoàng xưng Đế để Cồ Việt quốc ngang hàng Tống quốc, là tuyên ngôn thoát khỏi cái ách nhược tiểu phụ thuộc như quận huyện của họ. Họ cố tình đặt lại chức Tiết độ sứ thì có khác gì ngày trước, vẫn giữ quyền cai trị với nước ta. Đã thế Tiết độ sứ lại là con trưởng của Tiên Hoàng. Với khí chất mạnh mẽ thì Phụ Hoàng nổi giận rồi phong Hoàng tử út Hạng Lang làm Thái tử là câu trả lời sắt đá. Bởi Ngài nghĩ rằng nếu phong huynh trưởng Liễn làm Thái tử, sau này huynh trưởng lên ngôi thì chẳng hoá vua nước Đại Cồ Việt vẫn là Tiết độ sứ, vẫn là chức quan nhỏ của Tống triều... chẳng phải Cồ Việt cũng vẫn chỉ là quận huyện của Tống quốc hay sao?
          Bên ngoài kẻ thù thâm hiểm rình mò như lũ chồn chuột, bên trong lại có đám nghịch thần mưu mô… Họ Lê lúc ấy vừa là thủ túc của Huynh trưởng Liễn, vừa là người được mẹ ta đi lại sủng ái. Người ta xúi bẩy tỵ hiềm, nhỏ to khích bác Đinh Liễn rằng Tiên Hoàng bỏ trưởng, lập út là trái đạo… Rồi người ta khích bác mẹ ta: nếu không lập Huynh trưởng thì đáng lẽ ngôi Thái Tử là của ta chứ sao lại trao cho Hạng Lang là con út... Để đến nỗi cốt nhục tương tàn: Đinh Liễn giết Hạng Lang. Những tưởng rằng huynh trưởng phải chịu tội chết... Nhưng Tiên Hoàng lại nghe lời các trung thần nén giận mà tha cho, nên cả mẹ ta lẫn họ Lê đều thất vọng. Họ Lê nói với mẹ ta nếu để thế này, trước sau ta cũng bị hại bởi tính tình Huynh trưởng ngang tàng bất chấp. Nhưng nếu trừ bỏ một mình Huynh trưởng thì Tiên Hoàng ắt sẽ tìm ra kẻ chủ mưu. Do vậy mới có cái chết thảm khốc của Tiên Hoàng cùng Huynh trưởng.
          Ta trẻ con làm vua, mẹ ta chấp chính được gần năm giời nhưng thực ra họ Lê nắm quyền. Người ta loại bỏ hết những trung thần của Tiên đế… Nước loạn từ ngày ấy. Và kết cục từ những việc này mà Tống triều mới có cớ để khởi binh… bởi mưu đồ thôn tính của họ có từ lâu.
          Khi có giặc xâm lược thì từ vua đến dân phải đánh giặc. Nhẽ đời vẫn thế. Sử sách sẽ muôn năm lưu danh anh hùng ghi công chiến tích những người vị quốc vong thân. Nhưng bia miệng cũng đời đời trách tội kẻ làm nước loạn, dân bất an vì mưu cầu tranh bá đồ vương. Bởi kẻ làm cho nước sinh loạn, dân bất an... chính là kẻ giúp cho ngoại bang nhòm ngó tính bài xâm lược.  
          Tiên Hoàng cha ta đại định non sông lần đầu tiên xưng đế. Sai lầm lớn nhất của Người là đặt lòng tin không đúng chỗ. Người dùng hình luật hà khắc để giữ vững nền thống nhất, như con rồng nhe răng múa vuốt bởi không tin dân, lúc nào cũng nơm nớp lo tạo phản. Nhưng Người mềm yếu uốn lượn bó khuôn bởi quá tin quan lại dưới quyền, dung túng cho hậu cung. Huynh hỏi tại sao ta lại vẽ những cánh tay đàn bà túm bờm, túm sừng rồng ư. Đó là sự cả tin trước những âm mưu xảo quyệt nhỏ nhen như đàn bà của Tống triều, của lũ loạn thần trong triều và của những đàn bà nhỏ nhen âm mưu vô tình tiếp tay cho giặc…Trong đó có mẹ ta… Hôm nay ta nghe mẹ ta hối hận trong sự dày vò tuyệt vọng vì đã ghen tuông ích kỷ, đã đam mê tình ái, đã cả tin những lời đường mật mà để lại hậu quả khôn lường…
          Bây giờ thì Trần Sinh đã hiểu: Bức tranh rồng đã chạm nọc nhà vua. Nó như một lời than thở ai oán. Chính vì vậy mà phế đế phải chết. Chết để chứng với thiên hạ rằng: Hai người: một đang làm Vua, một đã từng làm Vua; Người đi trước tên bắn mà không hề hấn, còn người đi sau chết ngay từ phát tên đầu tiên vì không có “chân mệnh Thiên tử”. Phải chăng câu tung hô: “Chân mệnh Thiên tử” là để khoả lấp mọi mưu đồ và khẳng định vị thế của nhà vua, đè bẹp tâm thức của những kẻ phản kháng.
          “Huynh nghĩ gì mà lâu thế! Hãy sửa soạn mà đi cho kịp. Trời sắp sáng rồi”. Trần Sinh bừng tỉnh khi nghe tiếng của người con gái thì thào trong bóng tối vì ngọn lửa trên bát hương đã tắt tự lúc nào. Tự nhiên Trần Sinh thấy người con gái này từ bây giờ đã trở nên gần gũi. Chàng rụt rè đưa tay ra và gặp được bàn tay mềm ấm… bàn tay ấy cũng mạnh dạn nắm lấy tay chàng. Có nhẽ đây là sự sắp đặt từ tận chốn cao xanh của Chủ Vương...
          Sáng hôm ấy khi cổng thành vừa mở, trong đám người ra ngoài kiếm kế mưu sinh, người ta thấy một cặp vợ chồng ăn mày. Người chồng già nua què quặt gù có bướu trên lưng. Người vợ mắt mù, mặt mày nhếch nhác lấm lem bùn đất… họ nón mê áo tơi rách thất thểu dắt díu nhau đi về phía nam…
          Chiều hôm ấy từng tốp lính lùng sục khắp nơi tìm Trần Sinh. Dăm ngày sau lệnh truy nã khẩn cấp kẻ phản nghịch về tới quê Trần Sinh. Hình phạt: xử trảm toàn gia! Nhưng bố mẹ chàng đều đã chết từ vài năm trước và người ta cũng chẳng thấy Trần Sinh về nhà. Quan địa phương được lệnh triều đình: nếu thấy kẻ phản nghịch Trần Sinh thì phải bắt ngay lập tức. Nếu hắn bỏ chạy được phép tiền trảm hậu tấu.
          Nhưng mọi kiếm tìm đều vô vọng. Không ai biết Trần Sinh đã đi đâu.
         

          Gần sáu trăm năm sau, Triều đình Lê Trịnh cho tôn tạo Đền thờ Vua Đinh ở Hoa Lư. Có một cánh thợ đá đến xin được góp công. Họ nói mình là hậu duệ 17 đời của cụ Tổ đã từng làm chùa Thạch trụ… và họ đưa lên bức lụa vẽ mẫu sập rồng đá do cụ Tổ truyền lại. Đựơc chấp thuận, họ miệt mài làm mấy tháng giời thì xong…
          Chiếc sập rồng đá ấy hiện là kiệt tác nơi đền Đinh!

                                                                                                        Tuyên Quang- Nam Định Tháng 5 năm 2014

  
Đọc thêm!

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

CHỈ TẠI NHÀ THƠ...

  Bịa chuyện cho vui       

 Quỷ Đầu Trâu dạo này được Giời giao cho cai quản dưới âm phủ. Đáng nhẽ cái chức trách ấy là của Diêm vương nhưng Diêm Vương lại mải chơi nên hay xí xớn đi thăm chỗ này chỗ khác để ra điều với thiên hạ rằng thì là nếu Giời mà nghỉ hưu thì sẽ lên thay... Chính vì vậy mà Quỷ Đầu Trâu được cai quản âm ty địa ngục.
          Ngặt một nỗi những thằng người bị chết đều được Giời chứng nhận thuộc diện trong sạch nên được lên Thiên đường ráo cả, chả có đứa nào phải xuống âm phủ. Thành thử Quỷ Đầu Trâu nhận chức mà không có việc gì để làm.
          Đầu tiên Quỷ muốn ra oai định lên trần thế bắt mấy thằng có chức quyền xuống mà khảo cho đỡ “nhạt ghế”. Thật ra quan chức trên này thì thằng nào cũng có tội cả. Lại nhớ lệnh của Giời là làm gì cũng phải tính trước tính sau, bắt hết hỏi tội hết... thì bầu không kịp... Quỷ muốn cắt “Cu” thì phải theo khuôn phép nhà Giời, Giời đã bảo như thế thì đứa nào dám trái, nên đành chịu.
          Được giao “Quyền”  mà lại không có việc gì thì sinh ra chán. Trong không gian âm ty mờ mịt nhờ nhờ nước hến, Quỷ ngồi ngoẹo cổ ngủ gật trên ngai, dãi rớt lòng thòng ướt cả ngực áo. Thấy lành lạnh ở ngực, quỷ tỉnh dậy. Ngáp vài cái mồm rách đến mang tai... chợt thấy sự vô lý của cái chức vị đang quyền. Nghĩ một hồi rồi Quỷ ta khăn gói quả mướp lên giời...
          Qua chín tầng cửa quyền mới vào đến chỗ Giời. Thấy giời cũng đang... ngủ ngồi. Đánh thức dậy thì phạm đến long thể đấng Chí tôn cai quản muôn loài. Mà không  đánh thức thì đến bao giờ mới tâu trình được. Quỷ Đầu Trâu gõ sừng cồng cộc vào chân ngai vàng mà Giời vẫn cứ ngủ. Chắc đêm vừa rồi ngài thức khuya lo việc tầm vũ trụ. Kể cũng thương. Nhưng một ngày trên giời bằng 1 năm dưới trần, một năm dưới trần lại bằng mười năm dưới âm phủ, cứ ngồi đợi thế này thì không khéo phải đóng cửa Âm phủ thì gay. Tính sao bây giờ.
          May sao giữa lúc ấy có Tiên nữ bên cung Quảng hớt hải chạy sang:
          - Giời ơi giời... dậy đi dậy ngay!
          Quái, con này láo thế, dám gọi Giời như thể bằng vai phải lứa. Nhưng Quỷ chợt hiểu ra từ cái câu của người trần thế “gần chùa gọi bụt bằng anh”... cùng giường thì Giời cũng được gọi bằng anh... chả trách nào Ngài vẫn còn mệt.
          Khiếp ngủ gì mà ngủ ác thế. Gọi đến lần thứ hai thứ ba thì Giời mới giật mình hốt hoảng (ôi thì ra Giời vẫn biết sợ):
          - Có việc gì? Việc gì?
          Tiên nữ nói một hơi:
          - Công chúa Hằng Nga nguy... nguy rồi!
          - Sao mà nguy?
          Tiên nữ nhìn Quỷ Đầu Trâu ngại ngại. Giời cũng nhìn thấy Quỷ Đầu Trâu... nhưng ngài phẩy tay:
          - Nói... không việc gì phải ngại! Thằng này ngu lắm, mấy lị dưới âm phủ thì nói được với ai mà ngại. Cứ nói đi, con ta làm sao? Nguy là nguy thế nào?
          - Dạ... dạ. Công chúa Hằng Nga bị bị vỡ... vú.
          Nghe đến đây mặt Giời tái mét... suýt ngất. Cũng may ngài là Giời nên trấn tĩnh được:
          - Sao mà vú con ta lại vỡ được?
          - Dạ... vỡ là do bị nổ ạ! Dạ là do phẫu thuật bơm thẩm mỹ ạ. Do cái mụ Thiên y mắt trố cập bờ lờ nên...
          - Giời ơi là... Chợt nhớ ra mình là giời nên đành kêu khổ thế... khổ thế. Nói cụ thể ta nghe xem nào? Vú nó đang hẳn hoi vậy mà sao phải bơm thẩm mỹ...
          Tiên nữ lập bập thưa:
          -Tại... tại... mấy thằng nhà thơ dưới hạ giới ạ...
          -? ? ?
          - Là bởi nhẽ thế này: ở cung Quảng dạo này buồn quá nên Công chúa sinh ra hay đọc thơ để giải buồn. Đọc nhiều lắm ạ! Nhưng càng đọc Công chúa lại càng tức. Tức vì các nhà thơ toàn ca ngợi Hằng Nga đẹp vào lúc tròn đầy. Mà Giời cũng biết rồi đấy, cả tháng chỉ đầy được có vài ngày còn thì lép xẹp: Đầu tháng mỏng như cái lá lúa, cuối tháng thì nham nhở như thể bị chó gặm. Những lúc ấy chả đứa nào ca ngợi cả. Vậy là Hằng Nga quyết bơm ngực cho đầy cả tháng để bọn nhà thơ lúc nào cũng phải ca ngợi. Vậy là bảo Thiên Y bơm ngực. Thiên Y đặt mức bơm một giờ từ lúc 12 giờ trưa đến 1 giờ chiều... Nào ngờ Thiên y mải buôn dưa lê quên cả thời gian lại mắt cập bờ lờ nên nhìn đồng hồ “nhầm” kim ngắn hóa kim dài kim dài thành kim ngắn... 1 giờ chiều lại tưởng mười hai giờ năm phút... vậy là cứ bơm... cứ bơm... vậy là đoành một phát... nổ to lắm... vậy là Hằng Nga vỡ vú... Vậy là...
          Giời hốt hoảng nhảy từ trên ngai vàng xuống miệng lẩm bẩm: Mấy thằng nhà thơ khốn kiếp... rồi biết tay ông. Xỏ vội chân vào đôi hia rồi khoát tay một phát Giời bảo: Đi! Thế là Giời đi sang cung Quảng cùng Tiên nữ.
          Quỷ Đầu trâu vội chạy theo nắm lấy vạt áo Giời níu lại. Giời cáu:
          - Đang vội. Có việc gì? Nói mau.
          Quỷ lập bập:
          - Dạ bẩm...
          - Bẩm cái con khỉ. Nói mau... vội bỏ mẹ lại còn bẩm...
          Quỷ vội thưa:
          - Bẩm dạo này dưới âm ty không có việc để làm!
          Giời chửi ngay:
          - Sao ngu thế. Tao đã đặt ra chức cho mà ngồi thì phải tự nghĩ ra việc để mà làm. Có vậy mà còn hỏi.
          Nói xong Giời tất tả đi miệng vẫn lẩm bẩm: mấy thằng nhà thơ khốn kiếp... rồi biết tay ông.
          Quỷ nghe được những nhời vàng ngọc của Giời nhưng chả hiểu ra làm sao. Hắn đứng gãi tai, gãi mũi một hồi rồi nhẩm: “Nghĩ việc mà làm... mấy thằng nhà thơ khốn kiếp... rồi biết tay ông”. Thế là thế nào nhỉ? À đúng rồi mình là quân của Giời, phải nhớ câu “còn Giời thì còn quỷ...” mà Giời đang ghét mấy tay nhà thơ. Vậy thì phải trị mấy tay nhà thơ. Đúng. Phải trị. Thay Giời hành đạo, trị mấy tay nhà thơ lập công với Giời. Thế nào cũng được thưởng công, thế nào cũng lên chức. Rồi mình sẽ lên làm Diêm Vương, rồi dần dần được đề bạt làm ông Giời, thoát khỏi kiếp tay sai làm quỷ. Sướng quá. Quỷ vội ba chân bốn cẳng rời khỏi Thiên đình để đi tìm mấy tay nhà thơ dưới trần thế.
          Đến trần thế thì Quỷ Đầu Trâu lại băn khoăn. Nhà thơ là người như thế nào, hắn đâu có biết và cũng chưa gặp bao giờ. Nhưng nghe cái danh xưng “nhà” thơ thì chắc chắn nó phải có cái nhà rất to. Rồi! Nó phải biết làm thơ. Rồi! Nhưng Thơ là cái gì nhỉ... chắc là phải nói có vần... Rồi thì gì nữa nhỉ... Quỷ Đầu Trâu vốn không biết chữ. Không biết chữ nó khổ thế đấy giời ạ...Ôi thôi chết! Phạm húy... Quỷ vội rụt lưỡi lại.
          Từ xa xa Quỷ trông thấy một thằng người. Thằng này đang dạng chân đứng đái. Lại thấy hắn vừa đái vừa hét rõ to:
                   Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
                   Trông hôm nay và trông cả mai sau
                   Trông bắc trông nam trông cả địa cầu...
          Hiên ngang gớm, vần gớm... Có thể thằng này là nhà thơ- Quỷ nghĩ vậy. Nhưng không biết nhà nó có to không? Cần phải kiểm tra. Nhưng lộ mặt quỷ thì không được: nếu gặp thằng nhát thì nó sẽ chạy bán sới, còn nếu gặp thằng cùn thì... nó đập vỡ mặt. Lại phải nghĩ cách. Quỷ bèn hóa thành đứa con gái. Đứa con gái ưỡn ẹo đến gần thằng người:
          - Em chào anh!
          Thằng người thấy gái thì vội quay người kéo khóa quần... rồi đon đả:
          - Anh chào em gái yêu kiều.
          Ối giời... lại còn yêu kiều. Đúng nhà thơ thật rồi. Vậy là cô gái quỷ hỏi:
          - Anh là nhà thơ phải không ạ.
          Thằng người thấy gái gọi là nhà thơ thì sướng nở mặt nở mũi. Hắn trả lời ngay tắp lự: Đúng anh là nhà thơ... công nhận em gái tinh thật. Vừa xinh đẹp vừa thông minh.
          Thực ra thằng này là thằng chăn vịt, suốt ngày lông nhông ngoài đồng. Nay thấy gái thì ra cái điều thơ phú. Quỷ thì chỉ biết là thơ phải có vần... muốn hỏi nhanh nhanh để biết rõ thằng người có phải nhà thơ không để còn trị tội. Nhưng lại có một cái luật giời là quỷ chỉ được phép biến thành người trong một quãng thời gian ngắn nên cần phải xác định cho rõ. Vậy là cô gái quỷ phải ưỡn ẹo hỏi tiếp vào cái chủ đề chính mà quỷ đang cần biết để khẳng định:
          - Nhà anh ở đâu, có to không?
          Thằng chăn vịt đang cơn hứng và cũng muốn tỏ ra mình là nhà thơ bèn vung tay như nghệ sĩ, mắt nhắm nghiền đầu ngẩng cao ung dung uốn giọng:
          -Trời cao biển rộng ngày đêm
          Mây che làm mái, đất êm giường nằm
          Quân gia kẻ dưới hàng ngàn
          Lúc vui tiên cảnh... lúc nhàn làm thơ.
          Cô gái quỷ nghe thằng chăn vịt nói vậy thì chắc mẩm đây là nhà thơ. Vì nó nói ra là đã có vần, nhà nó to đến vậy cơ mà, gia nhân nó đông hàng nghìn cơ mà... chắc chắn thằng này là nhà thơ nhớn. Mày chết với ông. Vậy là quỷ nắm lấy lưng quần chàng chăn vịt. Thằng chăn vịt thấy buồn buồn ở lưng... sướng mê tơi nghĩ bụng: “Em cảm mình rồi.” Ôi... thì ra bốc phét vài câu mà gái đẹp phải lòng đã bày tỏ tấm tình ngưỡng mộ gửi trao.
          Đang cao hứng định bịa tiếp thì hắn mở mắt. Mở mắt nhìn mặt cô gái để mong chứng kiến sự ngưỡng mộ của người đẹp. Chợt hắn thấy cái mũi cô gái to dần, to dần lại đen sì, còn cái tai vểnh ra như lá mít và trên đầu cô gái thấy nhu nhú cặp sừng... thì phát hoảng. Chả nhẽ lại là quỷ. Quả thật Quỷ đã hết thời gian hóa thân đành hiện nguyên hình. Thằng chăn vịt thất thần tắc giọng... tính bài co cẳng chạy. Nhưng Quỷ đã giữ chặt lấy cạp quần, thằng chăn vịt ngã sóng xoài. Quỷ cũng ngã theo nhưng tay vẫn giữ chắc cái lưng quần của thằng người. Chàng chăn vịt vội vàng xoay người nằm ngửa, chuồi chân ra khỏi cái quần... rồi chạy thục mạng.
          Quỷ ngơ ngẩn tiếc rẻ, rồi cầm cái quần của chàng chăn vịt: Xem trong quần của “nhà thơ” có cái gì. Thấy cồm cộm, quỷ ta lôi ra một tờ giấy. Thấy đầy chữ. Nhưng Quỷ lại không biết chữ nên chắc mẩm đấy là “thơ” vì Nhà thơ chắc chắn phải giữ thơ ở trong túi quần. Thực ra đấy là một tờ công văn hay thông báo gì đó mà chàng chăn vịt nhặt được. Mục đích là để làm giấy chùi sau khi đại tiện, để khỏi phải dùng bằng đất mỗi khi ở ngoài đồng.
          Dẫu Giời bảo là ngu nhưng quỷ ta cũng chịu khó nghĩ ngợi. Chả vậy mà người trần thế có câu mưu ma chước quỷ. Thế là Quỷ đần mặt ngồi tập hợp các dấu hiệu mà quỷ chắc chắn đấy là nhà thơ: Ở nhà to này; có đông kẻ hầu người hạ này, lúc mơ tiên cảnh tức là chơi bời rượu chè nhậu nhẹt chân dài nhà nghỉ... lúc nhàn làm thơ: Thơ thì phải viết ra tức là phải viết rất nhiều chữ như cái tờ giấy mà quỷ vừa bắt được. Được rồi. Thế thì rất dễ tìm. Đợt này ông cho chúng mày toi.
          Thế là quỷ tàng hình đến tất cả các nhà to có gác cổng, có kẻ hầu người hạ... tìm những anh chàng hay nhậu nhẹt rượu chè chân dài nhà nghỉ để đánh dấu. Sau đó lại lượn lờ theo đuôi những anh chàng ấy để xem xét... Nếu thấy ngồi viết lách trong biệt thự nguy nga thì chắc chắn đấy là nhà thơ.
          Sau khi xác định được các “nhà thơ” rồi thì Quỷ ta lên bá cáo với Giời: Hiện nay bọn “nhà thơ” rứt là đông. Những điều chúng viết ra bị dân chúng la ó chửi bới Giời thậm tệ: nào là Giời quan liêu, nào là Giời dung túng, ngầm tiếp tay cho đám ăn bớt ăn chặn, thậm chí có người còn bảo là Giời ngu... Uy tín của ông Giời ngày càng giảm sút nghiêm trọng.
          Quỷ kết luận: Đây là bọn phá hoại.
          Nghe nhời Quỷ tâu lên, Giời tức quá. Đúng là bọn phá hoại! Ngài ban cho Quỷ Đầu Trâu “Thượng phương Bảo kiếm” truy nã bắt tất cả bọn “nhà thơ” ấy xuống âm phủ. Bắt cơ man là người. Quỷ lúc này rất bận rộn vì phải ra oai hỏi cung để trị tội. Nhưng oái oăm... bọn này không tên nào chịu nhận là nhà thơ.
          Quỷ chả hiểu ra làm sao... lại lên tâu với Giời. Giời lúc ấy đích thân xuống âm phủ xem xét.  Sau khi xem xét xong Ngài hằm hằm chỉ tay vào mặt Quỷ Đầu Trâu: Đồ ngu. Đấy chính là các quan, các chủ dự án của thiên đình... Trách nào khi vá vú cho Hằng Nga xong thì nhìn thiên đình vãn đi quá nửa. Làm gì có nhà thơ nào!
          Thế là Quỷ bị phạt. Một năm Giời chỉ cho lên mặt đất có vài ngày. Đến bây giờ hắn vẫn tức vì cái sự ấy và lầm bầm chửi “chỉ tại mấy tay nhà thơ.”
          Còn Hằng Nga dạo này vẫn xẹp lép đầu tháng, nham nhở cuối tháng... mấy ngày giữa tháng thì vơ những đám mây để che những đám vá víu trên ngực mình cho đỡ xấu hổ. Bây giờ có thách kẹo cũng chả dám nghĩ đến chuyện bơm ngực thẩm mỹ nữa.
          Các nhà thơ thật thì  đang ở nhà tôn nóng chảy mỡ, vén quần quá đầu gối củ lạc, uống rượu nút lá chuối nhắm lạc rang đang cười ha hả... khoái chí lắm.
          Và họ lại rổn rảng đọc thơ: “trăng tròn tròn, tròn như cái mâm con”
           

           
         



         



         

           
Đọc thêm!