Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012

VÌ SAO ÔNG GIÓNG VỀ GIỜI... (Chuyện xưa kể lại của Mai Tiến Nghị)

Truyện này đã đăng từ năm ngoái... nhưng hôm nay đăng lại một tí tì tị cho vui.
 
Truyền thuyết "Thánh Gióng" thì ai cũng biết rồi nhưng muốn kể lại cho vui. Dùng lối viết nôm, ít dùng từ Hán Việt nên có vẻ thô thô. Hư cấu hư véo thêm tí cho có mầu chuyện kể. 
Ngày xửa ngày xưa…
Đời Hùng Vương thứ sáu. Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Lúc bấy giờ, dân nước ta đang thuở sơ khai. Chữ Hán cũng chưa vào nước ta được bao nhiêu, đạo Khổng chưa ra đời, thế giới không bị ràng buộc bởi quân sư phụ… Người dân sống bởi cái tình là chính, còn cái lý cũng rất mực giản đơn: “Nói đúng cái thúng phải nghe”. Nói chuyện với nhau chả kể gì quan tước, vai trên vai dưới… gọi nhau vẫn “mày tao” như dân nước ngoài thời hiện đại.
(Sở dĩ phải giải thích như vậy để mọi người đừng trách người kể chuyện hay nói bậy nói bạ mà không theo phép tắc.)


Kỳ 1/ Ở làng Gióng thuộc bộ Vũ Ninh có một đôi vợ chồng đã già, sống lương thiện mà vẫn chưa có con nối dõi. Hai ông bà rất lấy làm buồn phiền.

Giời thấy vậy thì thương. Nhân có một tướng nhà giời mắc lỗi, Giời bèn trừng phạt bằng cách cho xuống trần đầu thai nhà ấy để sau này lập công chuộc tội.

Người vợ già một hôm ra vườn cà thấy có dấu chân to bằng mười dấu chân người thường. Lạ quá! Sao lại có người to thế? Bà ta bèn cho chân mình vào ướm thử.
Khi đặt bàn chân mình vào cái dấu chân to đùng kia chợt thấy trong người rạo rực, lòng xuân lai láng như thuở còn mười tám đôi mươi.

Bà ta vội vàng về nhà, thấy ông chồng già đang ngồi ngoài sân cởi trần, dạng chân đan rổ, khố dây lỏng lẻo vắt sang một bên, bà lão càng rạo rực bội phần… Vội lôi thốc ông chồng vào buồng, cởi bỏ xống áo của mình, giật cái khố dây của ông lão… rồi vòng tay ghì riết…
Lúc thỏa mãn cơn dục tình, buông tay ra thì ông lão đã ngoẹo cổ, sùi bọt mép…

Bà không dám khóc to. Bảo rằng ông bị phải gió. Làng xóm xót thương giúp đỡ chôn cất ông chồng chu đáo.

Cũng từ hôm ấy bà lão có thai. Chín tháng mười ngày vẫn không thấy đẻ. Mọi người bảo là chửa trâu. Rồi đến mười hai tháng thì bà đẻ được một con giai đặt tên là Muộn.

Muộn đẻ ra mà không biết khóc. Rồi ba tháng, năm tháng, mười tháng không biết cười… hơn năm giời cũng chẳng u ơ lấy một tiếng, mọi người bảo là câm. Suốt ngày chỉ nằm mút tay, chân khua loạn xạ.

Bà già mải đi làm, để thằng bé Muộn nằm một mình ở nhà. Mũi rãi nhoe nhoét, ruồi nhặng bu đầy mặt.

Lúc bấy giờ giặc Ân phương Bắc lăm le xâm lược nước ta. Vua Hùng hoảng sợ bèn gọi các tướng lại họp bàn. Nhưng khổ một nỗi các tướng (lúc bấy giờ gọi là Lạc tướng) toàn con ông cháu cha chỉ giỏi đội mũ đeo râu ra oai với thiên hạ, chứ nghe đến đánh trận thì mặt xanh như đít ngóe. Vả lại lúc đó tướng nhiều hơn quân. Tất cả các tướng đồng thanh rằng phải án binh bất động.

Vua lại gọi các quan (gọi là Lạc hầu) đến hiến kế, các quan thảy đều lo sợ nếu đánh giặc thì nhà cao cửa rộng của mình tan hoang, đất cát tiền bạc mất hết, việc mua quan bán tước bị đình hoãn… Vậy nên đồng lòng tâu vua xin hòa để giữ ghế, để tiếp tục tham nhũng sách nhiễu dân lành.

Vua nghe theo quan tướng, cho người đem lễ vật sang triều đình nhà Ân xin làm chư hầu để được phong vương. Bọn giặc Ân được thể càng lộng hành. Nó sang giả vờ thuê đất thuê rừng, lấn biển… đưa người của nó vào làm rồi bóc lột thẳng tay người Văn Lang. Nham hiểm hơn bọn giặc còn đưa người khai khoáng mỏ vàng, mỏ bạc… bọn này dụ dỗ con gái Văn Lang nhẹ dạ, giả vờ lấy làm vợ để đồng hóa người nước ta và dễ bề vơ vét của cải. Hàng đoàn người ngựa kìn kìn chở vàng về phương Bắc mà vẫn không hết của. Bọn giặc lại bí mật đào hầm chôn giấu vàng bạc rồi dụ dỗ mua các thiếu nữ đồng trinh chôn sống làm thần giữ của đợi đời sau con cháu sang lấy. Dân Văn Lang biết hết, họ đã trình báo lên các quan nhưng bọn quan tướng Văn Lang chỉ biết giương mắt ếch ra nhìn mà không dám ho he phản đối dù chỉ một nhời…


Dân tình vô cùng bực bội. Các bậc kỳ mục trong làng ngoài xã tập hợp từng đoàn phản đối. Vua nhà Ân bắt vua ta và các quan tướng phải thẳng tay bắt bớ đánh dẹp. Rồi còn bắt vua loan báo rằng việc chống giặc là việc của triều đình. Cấm chỉ dân đen manh động. Đứa nào làm trái thì bắt chém.

Đã vậy triều đình còn bắt dân nay phải mở lễ hội mừng vua, mai phải mở tế lễ các thánh thần phương Bắc. Dân lại phải bỏ việc đồng áng để tập trung rước sách rất là vất vả. Người già cũng chẳng được tha.


Bà mẹ cậu bé Muộn mặc dù đã già vẫn phải đi làm nghĩa vụ với vua, với vua Ân đất Bắc. Cậu bé Muộn thường bị bỏ đói. Muộn ta nằm một mình đập chân thình thịch xuống chõng tre, rồi tự dưng mở miệng u ơ hét váng cả nhà. Chợt có một con nhặng vo ve bay đến đậu vào mang tai bảo:
- Mày khôn hồn thì nằm im. Mày mà nói bây giờ là mày phải chết đấy!

Thì ra Muộn biết nói chứ không phải là câm như mọi người thường nghĩ. Còn con nhặng chính là Thổ thần.

Cậu bé Muộn đành thì thầm chỉ đủ cho con nhặng nghe thấy:
- Sao tao lại không được nói!
- Mày nằm ở đây không biết. Mấy người đòi chống giặc, nhà vua bắt hết rồi. Mày mà nói ra, vua nó sai người đến cho một nhát thì xuống âm phủ, rồi thì không có cơ hội lập công chuộc tội với giời đâu. Cứ nằm im đấy mà đợi.
- Vậy lúc nào mới được nói?
Thổ thần nói:
- Bao giờ tao bảo mới được nói.
Muộn lại nằm mút tay ngẫm ngợi. Rồi lại hỏi:
- Vậy nhỡ giặc nó đánh ngay sang đây thì sao.
Thổ thần bảo:
- Từ thuở Lộc Tục Kinh Dương Vương đến nay, giữ được nước giữ được đất là nhờ dân. Nay bọn vua quan triều đình bảo để chúng nó lo. Có mà lo được cứt! Cái lũ hèn này chỉ giỏi bắt nạt dân lành.... Mày cứ nằm im đấy đã, để chúng nó biết thân. Rồi chúng nó sẽ trắng mắt ra. Lúc bấy giờ mình đứng dậy cũng chưa muộn. Nhớ nhá! Cứ nằm im. Tức mấy cũng không được nói.

Thổ thần dặn vậy rồi bay đi. Muộn ta lại nằm mút tay ngẫm ngợi. Từ đấy giở đi không u ơ gì nữa. Mọi người vẫn bảo là câm.





KỲ 2:

VÌ SAO ÔNG GIÓNG VỀ GIỜI (kỳ 2)


Kỳ 2/
Tuy vua quan Văn Lang đã thần phục, khom lưng quỳ gối cung phụng đủ điều nhưng vua nước Ân vẫn chưa vừa ý. Dã tâm của hắn muốn chiếm trọn Văn Lang để bành trướng cả vùng. Vì vậy vua Ân tập trung mấy mươi vạn quân ở biên giới chuẩn bị thôn tính nước ta.
Đến bấy giờ vua quan Văn Lang mới cuống lên. Vua triệu tất cả các quan tướng lại để bàn kế chống giặc.
Vua bảo:
- Triều đình ta đã chịu nhún hết mức, nhục như con chó rồi mà nhà Ân nó cũng chẳng vừa lòng. Nó cứ đánh nước ta. Bây giờ chúng mày tính thế nào?
Các Tướng thưa rằng:
- Quân nó thì đông gấp trăm lần quân ta. Ta mà chống lại thì chắc chắn ta sẽ thua, ta sẽ bị giết hết chỉ sau vài ngày...Bây giờ chỉ có dân mới có thể chống...
Vua tức quá chửi:
- Tao nuôi chúng mày cốt để khi có giặc xâm lược thì đánh giặc giữ nước, chúng mày lại bảo rằng hễ đánh thì thua. Vậy chúng mày là cái quân ăn hại à. Thật là cái lũ cơm toi… đuổi chức hết đi cho rồi.
Chửi xong lại quay sang các quan:
- Chúng mày tính kế thế nào?
Các quan bèn thưa:
- Dân tình cũng ngao ngán lắm rồi. Họ chẳng theo ta đâu.
- Sao vậy!
Các quan đành phải nói thật:
- Họ bảo rằng họ nghèo đói chẳng có sức mà đánh đấm. Vả lại trước đây người ta muốn nói thì bị triều đình bắt bớ chém giết. Nên bây giờ họ bảo: kệ, đứa nào khom lưng qùy gối cho đứa ấy chết.
Vua lại tức:
- Đem mà chém hết đứa nào nói như vậy! Dám bảo ai khom lưng quỳ gối?
Các quan lại thưa:
- Nếu chém hết thì lấy người đâu mà đánh giặc ạ!
Vua bảo:
- Chúng mày phải đi mà đánh!
Lập tức các quan run như rẽ, mặt xanh như tàu lá. Thế rồi người thì lấy lý do già yếu, kẻ thì thở than cảnh nhà khó khăn, đứa thì kêu rằng mình đang bệnh tật. Ngược hẳn với trước đấy mấy hôm người nào cũng bảo là khỏe mạnh sung sức khôn ngoan tuyệt vời xin làm quan mươi mười lăm năm nữa để tiếp tục vì dân vì nước… bây giờ các quan nhất loạt xin bỏ chức…
Vua hoảng quá chửi toáng lên, các quan tướng cũng chửi nhau loạn xị. Cả triều đình như cái chợ vỡ. Lúc thường mũ áo xênh xang thì thân mật lắm. Đến khi có giặc thì mới xoay ra quặc nhau. Quan đổ cho tướng là hèn, tướng đổ cho quan là ngu… thật chả ra làm sao.
Vặc nhau một hồi lâu. Chợt có một vị quan lên tiếng:
- Thôi không phải cãi nhau nữa! Dân nó nói vậy nhưng bụng vẫn yêu nước yêu làng. Quan tướng không đánh được giặc thì quan tướng phải tìm được người đánh giặc. Vậy tất cả quan tướng hãy chia nhau về các làng quê, kẻ chợ… đi rao tìm đứa có tài ra đánh giặc. Chả hơn còn đứng đấy mà cãi nhau. Giặc nó đến nơi cho mỗi đứa một nhát thì xong đời.
Vua nghe nhời ấy, cho là phải, liền bắt tất cả quan tướng đi rao. Các quan tướng mỗi người một thằng lính hầu, một cái loa… thất thểu về các làng rao rằng:
- Loa loa… loa…
Chiềng làng chiềng nước…
Giặc chó Ân xâm lược
Ác độc đến không cùng
Máu dân chảy ngập sông
Thây người chất thành núi

Ai là người tài giỏi
Ra cứu nước cứu dân
Dẹp tan lũ giặc Ân
Vua ta xin có thưởng…
. Loa.. loa…

Cậu bé Muộn đang nằm mút ngón tay, nghe thấy tiếng loa thì rút ngón tay ra khỏi miệng, xua ruồi bu trên mặt, chân đập xuống chõng thình thịch. Thổ Thần lại hóa thành con nhặng bay đến đậu vào vành tai:
- Bây giờ nói được rồi đấy!
- Nằm mà nói à? Muộn thì thào hỏi.
Thổ thần bảo:
- Nằm mà nói thì ai nghe! Phải ngồi dậy chứ.
Vậy là Muộn ta ngồi thẳng dậy, mồm gọi: “Mẹ ơi!”
Bà mẹ đang lúi húi nghe thấy tiếng gọi, chạy lên nhà thấy thằng con đang ngồi trên chõng. Lạ quá. Ba năm nằm ngửa tơ hơ mà nay thì ngồi chễm chệ… Chưa kịp mừng thì đã nghe đứa con dõng dạc:
- Mẹ ra gọi cái đứa gọi loa vào đây!
Bà mẹ sững người, mồm lắp bắp:
- Sao lại gọi? Gọi vào làm gì?Quan đấy. Nó oai lắm đấy. Nhỡ ra nó đánh cho…
Cậu bé Muộn vẫn khăng khăng:
- Mẹ cứ ra gọi nó vào đây…
Bà lão lập cập chạy ra ngoài đường tìm gặp ông quan. Quan nhà ta cùng tên lính hầu đã mấy ngày rao mà chẳng có ai hỏi gì. Nay thấy bảo có người gọi thì mừng lắm. Vội theo bà lão vào nhà.
Quan nhìn quanh, chỉ thấy trên chõng là một thằng bé lên ba, áo khố chẳng có.
- Đâu! Đứa nào gọi tao? Quan hỏi.
- Tao gọi đấy! Thằng bé dõng dạc trả lời.
Quan tròn mắt, há hốc mồm: Thằng ranh con cởi truồng, chưa biết vắt mũi… Lại dám gọi…

Muộn ta vẫn dõng dạc:
- Mày về bảo với vua làm cho tao một con ngựa sắt cao gấp chục lần người nhớn và một cây gậy sắt năm chục người khiêng, một bộ áo bằng sắt và một mũ sắt to gấp hai chục người bình thường đem đến đây để tao đi đánh giặc.
Quan bình tĩnh giở lại. Bắt đầu lên giọng oai:
- Láo tôm láo cá! Ba cái tuổi ranh.Vẫn còn mút vú mẹ. Đánh đấm cái gì…
Cậu bé Muộn vẫn bảo:
- Mày không tin phải không. Đã thế tao chả thèm nói nữa. Xem đây này.
Nói xong bèn vươn vai một phát, người cao gấp rưỡi… trông đã bằng thằng lên năm. Cái chõng tre rung rinh…
Quan ngơ ngác… Muộn từ trên chõng nhảy xuống đất. Lại vươn vai phát nữa: cao bằng thằng trẻ con mười lăm tuổi.
Quan xanh mặt, vội kéo tên lính hầu chạy ra khỏi nhà. Muộn cười hê hê. Bà mẹ cũng cười rồi chạy vội vào trong nhà.
Muộn ngơ ngác: Sao mẹ lại chạy? Cúi xuống nhìn. Ối giời ơi! Thì ra mình chẳng khố áo gì. Truồng nồng nỗng. Ngượng quá!
Mẹ đưa ra cho mảnh khố. Cậu ta cuốn tạm vào người. Bụng hóp lại, Muộn kêu:
- Mẹ ơi! Đói…


Mình chỉ đăng lại hai kỳ vậy thôi... Nếu ai muốn xem tiếp thì xin mời vào mục "Chuyện xưa kể lại" trong blog này để xem cả truyện. 






6 nhận xét:

  1. Đọc thấy kì lạ và cô tích thế nhỉ?

    Trả lờiXóa
  2. qúa đã. Hoan hô bác cuaran

    Trả lờiXóa
  3. truyện viết hay quá bác ơi!!!

    Trả lờiXóa
  4. Truyện hay quá bác ơi, tuyệt vời

    Trả lờiXóa
  5. Không hiểu vì sao ông Gióng về trời????? Hỏi ai bây giờ nhỉ????????

    Trả lờiXóa
  6. có thể so sánh với võ lâmm kiếm ký của huỳnh ngọc chênh

    Trả lờiXóa