Mình xin gửi tới phần đầu... phần sau sẽ đăng tiếp, kẻo dài quá mất thời gian bạn đọc.
Tôi đang ở trường chợt nghe
vợ gọi:
- Anh về ngay! Ông Viên sắp chết…
- Viên nào?
- Ông Viên “Chín Dúm” chứ ông Viên nào
nữa mà phải hỏi.
Nghe vợ nhấm nhẳng mà phát bực. Thôi chả
thèm hỏi nữa. Tính vợ tôi vẫn thế… nhấm nha nhấm nhẳng chả ra làm sao. Nhưng mà
lão “Chín Dúm” ăn mày chết thì có ảnh hưởng gì đến mình? Nhà lão ở tận cuối
xóm, thỉnh thoảng cũng gặp, cũng trò chuyện. Chẳng ra người xa lạ nhưng không
thể thân. Không thể thân bởi lão nhiều hơn mình đến vài chục tuổi, càng không
thể thân vì lão là ăn mày dù rằng ngày xưa lão cũng tương đối khá giả. Ngẫm sự
đời thấy vỡ ra muôn nỗi buồn cười: ngày xưa không thể thân vì lão giàu, người
giàu lúc ấy bao giờ cũng bị gắn cho cái mác bóc lột hoặc bất minh... mà dù có
minh bạch nhưng anh giàu thì cũng đáng khinh... tại sao chúng tôi nghèo rớt mà anh
lại giàu sụ? Sau này lão nghèo... thì thời đại đổi thay, mọi người vẫn khinh...
vì lão… nghèo. Tôi cũng trong số người ấy. Khinh cho đến khi lão phải đi ăn mày,
lúc ấy mới thương hại. Thì ra con người ta ai cũng luôn lấy cái thế bề trên để
ghét, để khinh, để thương hại. Trò chuyện mấy lần với lão, thấy cũng hay hay… Lão
thấy tôi để ý lắng nghe những câu chuyện của lão nên có vẻ cũng thích tôi. Chắc
đó là lẽ tự nhiên bởi mình nói mà có người nghe thì thích, người nghe mà lại đưa
đà bình luận một tý thì khoái, thì ra đấy là người tri âm tri kỷ. Nhẽ đời vẫn
thế... Nhưng lão chết thì cứ việc chết... có ai sống mãi được đâu. Nhẩm ra lão
cũng trên tám mươi tuổi rồi, cũng là thọ rồi. Ăn mày mà sống hơn tám mươi cũng
là hơi quá... bền làm chi cái kiếp ăn mày! Cái lạ là sao mình phải về ngay...
Vậy nên phải cố nhịn mà hỏi tiếp:
- Nhưng... sao tớ phải về ngay?
- Anh Tý bảo phải về ngay... anh ấy
bảo về ngay để gặp ông “Chín dúm” thì ông ấy mới “đi” được.
Lại còn thế nữa! Không gặp mình thì
không thể chết được. Hay là qua những câu chuyện với mình, lão “Chín Dúm” thấy
có điều gì bí ẩn cần phải giải toả, hay là cần nhờ vả điều gì, hay là lão muốn
mình xem giờ để lão “đi” cho khỏi “trùng tang”. Mà tứ cố vô thân như lão thì “trùng”
có ai để mà bắt, thông thường “trùng” chỉ bắt người nội tộc chứ bắt chi người
ngoài.
Thực ra lão “Chín Dúm” là người ở đâu
nhập cư về làng tôi cũng chả ai biết và lão cũng chẳng hề nói. Có chăng mấy ông
cán bộ xã ngày xưa biết nhưng các ông ấy lại chết cả rồi. Hồi sau Cải cách, khoảng
năm năm bảy năm tám thế kỷ trước thấy lão dắt díu vợ và hai thằng con thò lò
mũi chắc kém tôi vài ba tuổi về làng, dựng một cái lều ở góc chợ. Lão ngày ngày
đi khắp các làng mua chó về làm thịt cho vợ bán ngay tại chợ.
Lão Viên có khổ người cao lớn, bộ mặt
dữ tợn, râu ria rậm rạp như tướng cướp trong phim Liên xô, lúc nào cũng thấy lão
sùm sụp trên đầu cái mũ vải rộng vành màu chó gio của lính “Bảo Hoàng” thời Pháp
thuộc che hết vầng trán. Đã thế lão lại đeo cái kính râm hai mắt có ốp vải bạt
to bằng cái muôi múc canh sát thái dương, hình như là kính bảo hiểm của thợ hàn.
Sau bộ râu là tiếng “hừm hừm” làm trẻ con phát khiếp. Ngày ngày lão chống ba toong
có cuốn một sợi dây thừng đi khắp làng trên xóm dưới… lão đi đến đâu lũ chó thất
thần vừa sủa oăng oẳng vừa cúp đuôi chạy bán sới. Người ta lấy lão để doạ trẻ
con: “Im ngay không thì ông Viên đến bắt bây giờ!”. Thế là đứa trẻ nào gan lì
nhất trong làng cũng phải nín bặt. Lão Viên rậm râu thực sự là hung thần và là
nỗi ám ảnh của bọn trẻ con.
Cái việc làm thịt chó của lão cũng khác
người. Lão treo ngược con chó vào cột nhà, xẻo một miếng da ở cổ con vật đáng
thương, sau đó dùng cái đũa vót nhọn khều khều trong đám gân thịt bầy nhầy để tìm
động mạch… Cũng chỉ một nhoáng là lão lôi ra một sợi tròn tròn, to gần bằng chiếc
đũa đang giật giật… lưỡi dao xén ngọt… máu phọt ra, lão lạnh lùng đưa cái sanh đồng
hứng trọn. Dòng máu phụt ra quá mạnh gặp đáy sanh bắn ngược vào mặt kẻ sát
sinh, tung toé trên nền đất... Máu chó đọng thành giọt trên râu trên má lão.
Chắc là thấy vương vướng nên lão cúi xuống dụi dụi vào vai. Lúc lão ngẩng lên thì
vẻ dữ tợn càng dữ tợn vì cả khuôn mặt và cả bộ râu rậm đã được nhuộm đỏ nhoe
nhoét … Khi cái sanh đồng tiết đã lưng lưng là lúc con vật khốn khổ giãy giãy vài
cái, rướn xương sống lần cuối cùng rồi dãn ra bất động. Nó đã chết! Nhúng cái hình
hài vô hồn vào nước sôi, lão vặt lông và dùng kẹo đắng bôi đều trên da đến đỏ lịm
rồi thui sơ sơ bằng rơm. Đem ra ao lấy búi kỳ cọ… lúc này kẹo đắng ngấm vào da
chó trông vàng ươm như thể được thui rất kỹ. Mổ chó xong, lão dùng chày đập đến
dập hết mọi thớ thịt rồi mới đem luộc. Luộc xong lão lại ngâm xuống ao khoảng vài
giờ cho thớ thịt ngấm nước đến trương no... Sau cùng lão nhúng cả con chó đã no
nước vào nồi nước sôi ùng ục rồi vớt ra treo lên. Bên ngoài trông con chó vừa béo
vừa săn nhưng thái ra thì thịt nhũn nhèo nhèo, nhạt thênh thếch.
Với cung cách như vậy cùng với bà vợ
trắng trẻo phốp pháp khéo mồm chèo kéo chào mời nên tiền lãi của lão gấp hai,
ba lần những tay đồng nghiệp khác. Dần dần phát đạt, lão lấn ruộng xây nhà làm
nên cơ ngơi đàng hoàng nhất xóm. Lão phát đạt, lão giàu nên nhiều người ghét, họ
gán cho lão cái tên “Viên chó”
Năm bảy sáu tôi được giải ngũ sau mấy
năm khốn khổ đánh nhau. Xuống xe ở thành Nam đợi xe nửa ngày trời ở bến mà không đi được. May sao gặp ông chú đi
xe đạp ngang qua. Chú cháu nhận ra nhau mừng đến rơi nước mắt. Ông chú bảo đến
tối cũng không có ô tô đâu, thôi ngồi lên xe tao đèo về. Quãng đường hơn bốn chục
cây số nên chú cháu thay nhau đạp xe từng
chặng. Chặng cuối ông chú bảo “thử xem mày còn nhớ lối về nhà không nào” và ông
ngồi sau để tôi cầm lái. Rướn mình trên cái xe đạp cà tàng tôi hồi hộp theo từng
vòng bánh xe khi về gần đến quê nhà. Làng quê cũng chẳng khác mấy, có khi còn
tiều tuỵ hơn ngày mới ra đi. Phố chợ xiêu vẹo mái rạ trống hơ trống hoác càng làm
nổi bật căn nhà ngói của lão Viên sừng sững ở góc chợ.
Mải nhìn, tôi và cả cái xe đạp cùng ông
chú đổ vật xuống đường. Lồm cồm bò dậy thì ngay trước mũi xe là một lão già đang
nằm nhăn nhó quằn quại. Nhìn mặt thấy râu ria rậm rạp quen quen nhưng đôi con mắt
thì lạ hoắc, nó nhỏ nhưng sắc lẹm đang hấp háy… có cảm giác như thể một con dao
lá lúa sắc nhọn được người ta dứ dứ liếc qua liếc lại. Tiếng la oai oải từ sau
cái rậm rạp của bộ râu:
- Ối giời ôi! Chết… tôi… rồi. Ơi “các
sĩ quan vặt lông chó” của bố ơ…i. Bố chết đây này. Họ đâm xe chết bố rồi. Gẫy rời
cả chân cả tay rồi…
Ông chú tôi cũng đã đứng dậy được, khập
khiễng đến bên lão già vừa kéo tay lão vừa cười bảo:
- Nào ông Viên, đứng dậy nào… xem có
việc gì không! Gớm xe đạp xô vào mà như sắp chết đến nơi. Chỉ khéo ăn vạ!
À thì ra đây là lão Viên. Vậy
mà mình không nhận ra... vì bây giờ mới được thấy đôi mắt của lão. Đôi mắt mà trước
đây luôn giấu sau cái kính râm có chụp vải bao quanh như kính thợ hàn. Lão gượng
ngồi dậy, mặt nhăn nhó ra vẻ đau đớn... mồm xuýt xoa “Ối giời... Ối giời... đau...
quá”, một tay trái nắm lấy tay ông chú tôi, còn tay phải thì quờ quạng tìm cái
kính. Thực ra cái kính râm đang trong tầm tay lão vì hình như nó được quăng ra
với chủ ý ăn vạ. Lão đeo kính vào, ngước nhìn người đang kéo tay... rồi đột nhiên
lão đứng thẳng dậy như chẳng có chuyện gì xảy ra, mồm liến thoắng:
- Hế hế...Tưởng ai! Hoá ra ông Chắt hử... Ông đi đâu về... ừ
nhỉ về nghỉ cuối tuần hử... còn ai đây?
Ông chú tôi giới thiệu, thế là lão vồ lấy tay tôi lắc lấy lắc
để:
- Ối giời ơi... thằng Nghĩa con nhà ông Đức hử. Quý hoá quá.
Sống mà về là quý hoá quá... Có mang được cái khung xe đạp nào về không? Không
hử. Thôi cũng được... còn sống là tốt rồi. Mà
bây giờ nhiều anh khôn lắm, trong ba lô có hàng cân vàng... cần gì cứ phải
khung xe đạp... Thôi về nhà ngay, về ngay cho bố mẹ mày mừng. Tối tao sang chơi.
Gớm cứ tưởng ai...
Tôi đi bộ đội đánh nhau trong Nam mấy năm trời nên chả biết
gì về lão Viên. Thỉnh thoảng cũng gặp đồng hương. Thôi thì đủ thứ chuyện...
nhưng tuyệt nhiên không một ai nhắc nhỏm gì đến lão. Lão thừa ra trong sự quan
tâm của người làng... Sau hỏi ông chú thì biết cái sự thừa ra ấy bởi lão giầu
mà hai thằng con lại không phải đi bộ đội với lý do thiểu năng trí tuệ. Thì đấy
hai thằng con lão có biết chữ nào đâu! Vì chúng nó chẳng bao giờ đến trường, cộng
với chút quà cáp cho cánh cán bộ xã là có ngay cái cớ để nói rằng hai thằng bị thiểu
năng trí tuệ. Tôi biết điều này vì lúc mười một mười hai tuổi thỉnh thoảng vẫn
gặp chúng nó. Mặc dù hơn chúng vài tuổi nhưng vẫn bị chúng bắt nạt, hai đứa cậy
số đông “hai đánh một chẳng chột cũng què”. Có lần tôi hỏi sao chúng mày không đi
học thì hai thằng đều nói bố tao bảo học làm đếch gì, nhớn lên ở nhà giết chó.
Giết chó thì không cần phải học. Đang đánh nhau rầm rầm, biết chữ lại phải đi bộ
đội.
Sao có loại người
khôn róc đến thế? Khôn đến mức tự gánh chịu thiệt thòi để giữ yên mạng sống.
Cũng phải... cái gì cũng đều có giá của nó. Lão không hề giấu giếm và thậm chí
còn vênh vang tự hào vì cái việc ấy. Lão trêu ngươi thiên hạ bằng cách âu yếm gọi
hai thằng quý tử là “sĩ quan vặt lông chó của bố”. Hai thằng này không đi bộ đội
nhưng thích mặc quần áo bộ đội. Lúc nào cũng thấy đóng bộ quần ga-ba-đin Tô
Châu thùng thình, áo bay, mũ cối… như thể sĩ quan, miệng phì phèo thuốc lá, chả
làm gì suốt ngày nhông nhông ngoài đường, đêm vào làng tán gái và đánh nhau với
bọn choai choai.
(Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét